Nghiên cứu độ nhạy các mô hình vật lý sử dụng trong code tính toán thủy nhiệt relap5 dựa trên số liệu thực nghiệm của hệ thực nghiệm FEBA
Trong phân tích an toàn thủy nhiệt, kết quả tính toán mô phỏng sử dụng các phần mềm thủy
nhiệt phụ thuộc rất nhiều vào việc mô hình các hiện tượng vật lý đã được xây dựng trong các phần
mềm này. Các mô hình vật lý là các phương trình bão toàn, các công thức thực nghiệm được phát
triển dựa trên việc làm khớp chúng với các số liệu thực nghiệm, hoặc dựa trên các giả thiết, đơn giản
hóa để giải các phương trình lý thuyết. Chính vì vậy, các mô hình vật lý đó cần phải xem xét độ bất
định mà chúng đưa vào trong kết quả tính toán. Để tính toán độ bất định, khảo sát độ nhạy trước hết
được thực hiện để tìm ra những mô hình vật lý có tầm ảnh hưởng lớn lên kết quả tính toán cho kịch
bản tái ngập vùng hoạt. Khảo sát độ nhạy này được thực hiện dựa trên các số liệu thực nghiệm đo
đạc trên hệ thí nghiệm FEBA. Dựa trên hai tiêu chuẩn nhiệt độ cực đại và thời gian dính ướt, có bốn
mô hình vật lý có ảnh hưởng lớn lên kết quả tính toán đã được chọn từ 16 mô hình vật lý được xem
xét. Bốn mô hình này sẽ được nghiên cứu sâu hơn để đánh giá độ bất định mà chúng gây ra lên kết
quả tính toán trong pha tiếp theo.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu độ nhạy các mô hình vật lý sử dụng trong code tính toán thủy nhiệt relap5 dựa trên số liệu thực nghiệm của hệ thực nghiệm FEBA
trong bó nhiên liệu) [11] được đề xuất để cải thiện những hạn chế thực nghiệm trước đây. Thử nghiệm này 2. PHƯƠNG PHÁP, CÔNG CỤ TÍNH TOÁN được thực hiện để khảo sát sự truyền nhiệt phần VÀ HỆ THỰC NGHIỆM VÀ MÔ HÌNH HỆ đáy vùng hoạt lên khi thay đổi tốc độ dòng chảy FEBA tái ngập với thay đổi áp suất phần trên. Giống 2.1. Phương pháp, công cụ tính toán và hệ thực như thử nghiệm RBHT, FEBA (Thử nghiệm ngập nghiệm lụt với các mảng bị chặn) [12] được thực hiện để nghiên cứu cơ chế truyền nhiệt. Các tác động Về phương pháp, phân tích độ nhạy (SA) cho của bộ đệm lưới và sự phình nhiên liệu trong thấy các giá trị khác nhau của một biến đầu vào giai đoạn tái ngập đã được xem xét cho các thí độc lập ảnh hưởng như thế nào đến một biến đầu nghiệm trên hệ FEBA nhằm đánh giá, phát triển ra phụ thuộc cụ thể bằng cách sử dụng một tập và cải tiến các mô hình đã được xây dựng [12]. hợp các giả định. Trong số tất cả các tham số đầu 22 Số 67 - Tháng 6/2021 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Về phần mềm tính toán, phần mềm RELAP5 bằng. Sau đó, nước làm mát được cấp vào hệ từ được lựa chọn. Đây là phần mềm tính toán thủy phần dưới (10) để mô phỏng pha tái ngập. Trong nhiệt được sử dụng rộng rãi, có bề dày lịch sử quá trình tiến hành thí nghiệm, nhiệt độ của trong phân tích an toàn và cấp phép do Cục quản khung chứa (phần không được gia nhiệt) và vỏ lý hạt nhân Mỹ (USNRC) phát triển [13]. Phần nhiên liệu (phần được gia nhiệt) được đo tại các mềm này cũng có khả năng mô phỏng pha tái vị trí khác nhau dọc trên bề mặt trục của chúng. ngập. Các tính toán độ nhạy, độ bất định cũng đã được thực hiện trên phần mềm này. 2.2. Mô hình hệ thực nghiệm FEBA Nhiên liệu của hệ thí nghiệm FEBA là một bó thanh nhiên liệu có kích thước 5x5 như bó nhiên liệu thật của lò phản ứng nước áp lực (PWR) (Hình 2a) [12]. Nó được bao quanh bởi một vỏ hình vuông làm bằng thép không gỉ (Hình 2b) và được gia nhiệt bằng điện theo công suất cô-sin Hình 2. Sơ đồ nút hóa của thí nghiệm FEBA bảy bậc với mật độ công suất khác nhau (Hình trong RELAP5: (a) Cấu trúc cắt ngang của thanh 2c). Mô hình của phần chính của hệ thực nghiệm nhiên liệu; (b) Cấu trúc cắt ngang của bó nhiên FEBA (Hình 2d) được xây dựng dựa trên sơ đồ liệu trong thí nghiệm FEBA; (c) Công suất cô-sin cấu tạo bộ phận chính của hệ FEBA (Hình 2e). của các thanh nhiên liệu theo 7 bậc khác nhau; Mô hình phần chính của hệ thí nghiệm FEBA (d) Sơ đồ nút hóa hệ thí nghiệm FEBA trong RE- được chia làm ba phần khác nhau: thể tích đầu LAP5; (e) Phần chính của hệ thí nghiệm FEBA vào (150) tương ứng với khoang dưới (10), phần thử nghiệm chính bao gồm thanh gia nhiệt (11), và thể tích đầu ra (650) là khoang trên (12). Chiều 3. KẾT QUẢ TÍNH TOÁN dài thanh gia nhiệt là 3.9 mét được chia thành 39 3.1. Trường hợp tham chiếu đoạn có độ dài 0.1 mét. Trên thực tế, tổng chiều dài thanh nhiên liệu trong hệ FERBA là 4.114 m. Trường hợp tham chiếu là trường hợp tất cả các Tuy nhiên, phần chứa chất gia nhiệt chỉ có chiều mô hình vật lý xem xét với các giá trị mặc định dài là 3.9 mét, tức là từ 75 mm đến 3975 mm, như của chúng là 1.0. Có mười sáu mô hình vật lý với minh họa trong Hình 2c. Trong mô hình hệ thí các hàm phân bố (PDF) và dải giao động được nghiệm FEBA, các lưới giằng (tại các nút 4, 9, 15, chọn trong nghiên cứu độ nhạy như được liệt kê 20, 25, 31 và 36) cũng như khung chứa đề được trong Bảng 1. xét đến như được thể hiện trong Hình 2d. Dựa trên tiến trình thực hiện thí nghiệm cũng Thí nghiệm ban đầu được làm nóng bằng hơi ở như các điều kiện ban đầu và điều kiện biên cho công suất thấp (200 kW) để đạt được nhiệt độ thí nghiệm 216, tính toán tiến hành mô phỏng ban đầu cần thiết trước khi mô phỏng quá trình cho cả hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là mô phỏng tái ngập. Theo đường cong công suất nhiệt phân việc hâm nóng hệ bằng hơi đơn pha ở công suất rã 120% Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANS), quá thấp trong khoảng 1000 s cho đến khi đạt đến trình đun nóng hệ được tiến hành trong khoảng nhiệt độ ổn định của nhiệt độ vỏ nhiên liệu. Giai 40 giây sau khi lò phản ứng ngừng hoạt động để đoạn tiếp theo là mô phỏng quá trình chuyển tiếp đạt nhiệt độ mong muốn ban đầu ở trạng thái cân tái ngập bằng cách kích hoạt cấp nước từ lối vào Số 67 - Tháng 6/2021 23 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Bảng 1. Các mô hình vật lý, hàm phân bố và dải dao động của chúng lên bộ phận chính của hệ thí nghiệm, công suất bó nhiên liệu được áp dụng theo đường công suất mô phỏng nhiệt phân rã theo Chuẩn ANS 120 % nhằm mô phỏng quá trình tái ngập. Trong giai đoạn làm nóng bằng hơi đến nhiệt độ ổn định, kết quả tính toán nhiệt độ ban đầu của vỏ thanh nhiên liệu và khung chứa được so sánh với số liệu thực nghiệm như được chỉ ra trong Hình 3. So sánh này chỉ ra rằng quá trình mô phỏng đun nóng hệ thí nghiệm đã đạt được kết quả giống Hình 3. So sánh phân bố nhiệt độ ban đầu của vỏ như đo đạc thực tế. thanh nhiên liệu và khung chứa Hình 4. So sánh kết quả nhiệt độ tính toán của vỏ Hình 5. So sánh kết quả nhiệt độ tính toán của vỏ thanh nhiên liệu với các số liệu thực nghiệm và thanh nhiên liệu với các số liệu thực nghiệm và tính toán sử dụng phần mềm MARS-3D [5] tính toán khác sử dụng phần mềm RELAP5 [5] 24 Số 67 - Tháng 6/2021 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Khi chuyển từ trang thái ổn định sang trạng thái chuyển tiếp, các kết quả tính toán mô phỏng cho bài toán tham chiếu ở các độ cao khác nhau (ở phần dưới, phần giữa và phần trên của thanh nhiên liệu) được so sánh với dữ liệu thực nghiệm và các tính toán khác sử dụng phần mềm MARS- 3D (KAERI [5]), và RELPA5 (UNIPI [5]) như hình minh họa trong Hình 4 và Hình 5. Từ các so sánh trên có thể kết luận rằng input của Hình 6. So sánh kết quả tính toán nhiệt độ mô thí nghiệm 216 cho kết quả tương tự với kết quả phỏng trong trường hợp trước (no) và sau khi kích tính toán từ các phần mềm thủy nhiệt khác và có hoạt (with) lựa chọn xem xét độ nhạy của các mô kết quả khá gần với đo đạc thực nghiệm. Từ kết hình vật lý quả so sánh nói trên, input này có thể sử dụng cho các nghiên cứu tiếp theo. Kết quả tính toán trước khi kích hoạt các mô hình vật lý (Cal_xxno) hoàn toàn giống với kết quả 3.2. Tính toán độ nhạy tính toán sau khi kích hoạt chúng (Cal_xxwith). Để xem xét độ nhạy của các mô hình vật lý, các lựa Trong đó xx là chín vị trí (02, 07, 12, 18, 20, 23, chọn để xem xét 16 mô hình vật lý được kích hoạt 26, 29 và 34) như được minh họa trong Hình 6. như trong Bảng 1. Bài toán tham chiếu là bài toán Trong tính toán với trường hợp tham chiếu, kết mà các mô hình vật lý có hệ số mặc định được quả phân bố nhiệt độ chỉ ra rằng vị trí nút 26 có lựa chọn (giá trị là 1.0). Cần lưu ý rằng là khi kích nhiệt độ cao nhất, PCT xảy ra, tương ứng với độ hoạt chức năng này kết quả tính toán phải đảm cao 1400 mm. Đây được chọn là vị trí tham chiếu bảo là không đổi. Kết quả tính toán trước và sau và được dùng để tính phân bố nhiệt độ trong khi kích hoạt tính toán độ nhạy cho các mô hình phân tích độ nhạy. vật lý được chỉ ra trong Hình 6. Hình 7. Kết quả tính toán độ nhạy với 16 mô hình vật lý Số 67 - Tháng 6/2021 25 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Bằng cách lấy giá trị min và max của mỗi tham số trong 16 tham số, thực hiện truyền thông tin qua tham số lối ra là PCT và thời gian dính ướt, có tất cả 32 trường hợp được tính toán tại vị trí tham chiếu có PCT xảy ra (1400 mm) và kết quả được chỉ ra như trong Hình 7. Có thể thấy rằng kết quả tính toán có phân bố khá đối xứng về mặt nhiệt độ so với trường hợp tham chiếu (chỉ ra bằng đường đậm nét đứt quãng) và thực nghiệm. Tuy nhiên thời gian dính ướt trong tính toán mô phỏng cho Hình 8. Độ nhạy các mô hình vật lý theo tiêu một số trường hợp trong tổng 32 trường hợp này chuẩn PCT lại có thăng giáng đáng kể. Để phân tích độ nhạy, cần phải lựa chọn ra các tiêu chuẩn để đánh giá. Các tiêu chí được lựa chọn cho nghiên cứu độ nhạy trong đề tài này dựa trên các tiêu chí đã cho [5]. Đối với quá trình đánh giá và cấp phép về mặt thủy nhiệt, PCT là tiêu chí chính được lựa chọn. Trong kịch bản tái ngập được xem xét, thời gian dính ướt là một hiện tượng điển hình. Nó xác định tình trạng bề mặt của thanh, T , là khô nếu w Hình 9. Độ nhạy các mô hình vật lý theo tiêu nhiệt độ của thanh cao hơn nhiệt độ bão hòa chuẩn thời gian dính ướt khoảng 30 độ, Tw = Tsat + 30, và ngược lại thì vỏ thanh nhiên liệu là bị ướt. Có thể thấy rằng đối với cả hai tiêu chuẩn đánh giá độ nhạy, các mô hình vật lý từ với chỉ số Chính vì thế, hai tiêu chuẩn được lựa chọn trong tương ứng, từ 1 đến 5 và từ 11 đến 13, có rất ít nghiên cứu độ nhạy của đề tài là PCT và thời gian ảnh hưởng lên kết quả tính toán của nhiệt độ vỏ dính ướt: thanh nhiên liệu cũng như thời gian dính ướt. Tiêu chí PCT được xác định là giá trị tuyệt đối Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá độ nhạy PCT đã của độ thay đổi nhiệt độ PCT: nêu trên, có thể thấy rằng có ba mô hình vật lý (các mô hình với chỉ số là 6, 14, và 16) có ảnh ∆Tref (=PCTi - PCTref) = 10 (°C) hưởng lớn nhất đến nhiệt độ vỏ thanh nhiên liệu. trong đó i = 1, , 32. Dựa theo tiêu chuẩn đánh giá độ nhạy thời gian Tiêu chuẩn thời gian dính ướt là độ thay đổi trong dính ướt, các mô hình vật lý có chỉ số tương ứng thời gian dính ướt: là 6, 9, và 14 có ảnh hưởng lớn đến kết quả tính toán thời gian dính ướt. ∆tquench (=tq,i - tq,ref) = 50 (s) Như vậy, tính toán độ nhạy áp dụng hai tiêu chí Kết quả tính toán độ nhạy được thể hiện trong đánh giá là PCT và thời gian dính ướt chỉ ra 4 Hình 8 và Hình 9 trong đó các kết quả tính toán tham số (IP6, IP9, IP14 và IP16) có tác động đáng của giá trị Min và Max trong bảng chú thích kể nhất lên kết quả tính toán. Chúng được tổng tương ứng với giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của 16 kết như trong Bảng 2. tham số đầu vào xem xét. 26 Số 67 - Tháng 6/2021 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN Bảng 2: Bốn mô hình vật lý có tác động lớn lên nghiên cứu này. Các PM được phân tích độ nhạy kết quả đầu tính toán đầu ra thông qua mô phỏng hệ thực nghiệm FEBA dựa trên các số liệu thực nghiệm của Chuỗi 1 trong các thí nghiệm thực hiện trên hệ FEBA. Trường hợp tham chiếu đã được lựa chọn và kết quả mô phỏng đã chứng tỏ quá trình gia nhiệt tương tự như đã tiến hành trong thực nghiệm. Có 16 mô Có thể nhận thấy rằng bốn tham số này đều là hình vật lý đã được chọn cho nghiên cứu độ nhạy các tham số quan trọng trong giai đoạn tái ngập dựa trên hai tiêu chí về PCT và thời gian dính vì chúng liên quan đến chế độ dòng chảy và các ướt. Kết quả tính toán độ nhạy chỉ ra rằng bốn hiện tượng vật lý đặc trưng cho quá trình tái mô hình vật lý với chỉ số tương ứng là 6, 9, 14 và ngập. Hệ số sôi màng (IP6) là một hiện tượng chi 16 có ảnh hướng lớn đến kết quả tính toán trong phối chính trong quá trình truyền nhiệt trong số mười sáu tham số đầu vào được xem xét. Có giai đoạn tái ngập. Dòng hơi với các giọt cuốn thể nhận thấy rằng bốn tham số này đều là các theo (entrained droplets) (IP9) có kích thước và tham số quan trọng trong giai đoạn tái ngập và vận tốc khác nhau, có ảnh hưởng mạnh mẽ tốc độ cần được xem xét kỹ hơn về đóng góp độ bất định dòng cũng như khả năng truyền nhiệt [14]. Tiêu của chúng trong kết quả tính toán. chí khô hay ướt của vỏ thanh nhiên liệu (IP14) dẫn đến việc lựa chọn các hệ số truyền nhiệt hoàn Trần Thanh Trầm, Hoàng Tân Hưng, toàn khác nhau. Quá trình bị dính ướt đột ngột Đoàn Mạnh Long, Vũ Hoàng Hải và quá trình bị trì hoãn sự dính ướt là hai hiện Trung tâm Đào tạo hạt nhân tượng thường đi kèm trong quá trình dính ướt. Kết quả tính toán độ nhạy trong đề tài này được chỉ ra trong Hình 1.9. Có thể thấy rằng quá trình trì hoãn sự dính ướt là chiếm ưu thế. Điều này chứng tỏ rằng tiêu chuẩn dính ướt cũng cần phải TÀI LIỆU THAM KHẢO được đánh giá kỹ hơn. Mô hình vật lý được chọn [1] USNRC, RELAP5/Mod3.3 code manual Vol- cuối cùng, sự truyền nhiệt tại mặt phân cách ume I: Code Structure, System Models, and Solu- giọt-hơi nước (IP16), góp phần đáng kể vào việc tion Methods., vol. 1, 2001. truyền nhiệt, đặc biệt là trong giai đoạn tái ngập. [2] ISL, RELAP5/MOD3.3 code manual volume Số lượng giọt nước mang kèm hơi nước và kích IV: models and correlations, NUREG/CR-5535/ thước của giọt nước một phần quyết định khả Rev P3-Vol IV, 2006. năng truyền nhiệt chung, dẫn đến giảm nhiệt độ [3] NEA, Nuclear fuel behaviour in loss-of-cool- của thanh nhiên liệu. Do đó tham số IP16 cũng là ant accident (LOCA) conditions: State-of-the-art tham số cần có các đánh giá về độ bất định. Report, Nuclear Energy Agency, 2009. [4] Choi T. S., No H. C., Improvement of the reflood model of RELAP5/MOD3.3 based on the 4. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ assessments against FLECHT-SEASET tests, Nu- clear Engineering and Design, Vol. 240, pp.832– Trong số các điều kiện đầu vào như điều kiện ban 841, 2010. đầu, điều kiện biên và PM, PM được đề xuất là [5] Kovtonyuk, A. et al., Post-BEMUSE Reflood các tham số có ảnh hưởng nhất đến kết quả tính Model Input Uncertainty Methods (PREMIUM) toán. Chính vì vậy, các PM là trọng tâm trong Benchmark: Final Report, NEA/CSNI/R(2016)18, Số 67 - Tháng 6/2021 27 THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 2017. [6] Kovtonyuk A. et al., Post-BEMUSE Reflood Model Input Uncertainty Methods (PREMIUM) Benchmark Phase II: Identification of Influential Parameters, NEA/CSNI/R(2014)14, 2015. [7] Perez M. et al., Uncertainty and sensitivity analysis of a LBLOCA in a PWR Nuclear Power Plant: Results of the Phase V of the BEMUSE pro- gramme, Nuclear Engineering and Design, Vol. 241, pp. 4206 – 4222, 2011. [8] Horst Glaeser, GRS Method for Uncertainty and Sensitivity Evaluation of Code Results and Applications, Science and Technology of Nuclear Installations, pp. 1-7, 2008. [9] Lee N. et al., PWR FLECHT-SEASET un- blocked bundle, forced and gravity reflood task data evaluation and analysis report, NUREG/CR- 2256, 1982. [10] Seo G. H. et al. Numerical analysis of RBHT reflood experiments using MARS 1D and 3D modules, Journal of Nuclear Science and Tech- nology, Vol. 52, pp.70-84, 2015. [11] Hochreiter L. E. et al., RBHT reflood heat transfer experiments data and analysis, NUREG/ CR-6980, 2012. [12] Ihle P., Rust K., FEBA Flooding Experiments with Blocked Arrays Evaluation Report, März 1984. [13] Mesina G. L., A History of RELAP Comput- er Codes, Nuclear Science and Engineering, vol. 182, v–ix, 2016. [14] Berna C. et al., Review of droplet entrain- ment in annular flow: Characterization of the en- trained droplets, Progress in Nuclear Energy, Vol. 79, pp. 64-86, 2015. 28 Số 67 - Tháng 6/2021
File đính kèm:
- nghien_cuu_do_nhay_cac_mo_hinh_vat_ly_su_dung_trong_code_tin.pdf