Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên
TÓM TẮT
Hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tôm hùm lồng bè tại Vịnh Xuân Đài, tỉnh
Phú Yên được tiến hành điều tra dựa trên phiếu khảo sát có sự tham gia của cộng đồng
(PRA). Kết quả điều tra cho thấy, hoạt động nuôi tôm hùm lồng bè tại địa điểm nghiên cứu
diễn ra trong thời gian khá dài, từ 10 đến hơn 20 năm và ngày càng gia tăng về số lượng và
quy mô. Tuy nhiên, nhận thức của người nuôi về hoạt động nuôi và bảo vệ môi trường nước
vùng nuôi vẫn còn ở mức thấp. Trình độ văn hóa của người nuôi là khá thấp, tập trung ở bậc
THCS chiếm tới 61,8%. Kinh nghiệm nuôi được 100% người nuôi tự đúc kết từ thực tế và học
hỏi lẫn nhau giữa các hộ nuôi mà không thông qua bất kỳ các chương trình tập huấn nào. 99
% người nuôi có nghề nghiệp chính là nuôi tôm hùm, nuôi theo hình thức hộ gia đình 100%.
Mật độ nuôi/lồng và số lồng nuôi tự phát không nằm trong vùng quy hoạch cũng đang gia
tăng nhanh. Mặc dù 100% người nuôi cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến dịch bệnh trên
tôm hùm là do chất lượng nguồn nước nuôi và 70,6% hộ cho rằng do thức ăn thừa, tuy nhiên
có đến 72% người nuôi chưa quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng nước vùng nuôi và
81,7% người nuôi không xử lý thức ăn thừa. 100% người nuôi tôm hùm đều không sử dụng
bất kỳ loại hóa chất nào để cải tạo nước vùng nuôi và 100% người nuôi không trang bị thiết
bị xử lý nước. Ngoài ra, có 30% không hưởng ứng việc quy hoạch vùng nuôi
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá hiện trạng và mức độ nhận thức của người nuôi tại vùng nuôi tôm hùm lồng bè thuộc vịnh Xuân Đài tỉnh Phú Yên
g nước từ tháng 10 đến tháng 3 âm lịch, thường tập trung vào từ tháng 10 đến tháng 12. Đối với người nuôi có sử dụng nguồn giống nước ngoài, thời gian thả giống gần như quanh năm. 100% người nuôi tôm hùm được khảo sát đều cho biết, mật độ thả nuôi từ 50 con/lồng trở lên. 100% hộ nuôi thả tôm hùm giống ở giai đoạn tôm trắng (khối lượng 0,2 – 0,3 g/con, chiều dài 1,2 – 1,5 cm). Tùy theo loài tôm hùm mà thời gian thu hoạch khác nhau, với tôm hùm bông thời gian thu hoạch của mỗi vụ nuôi là từ 14 - 18 tháng, tôm hùm xanh và tôm hùm đỏ là từ 10 - 12 tháng. Nhìn chung, mật độ thả giống tại điểm khảo sát đều vượt hơn so với mức quy định của Quyết định số 2383/QĐ-BNN-NTTS ngày 06/08/2008 Quy định tạm thời về nuôi tôm hùm của Bộ Nông nghiệp và PTNT [8]. Bảng 3. Thời điểm và mùa vụ Stt Nội dung khảo sát Số hộ Tỷ lệ (%) 1 Nuôi 1 vụ 115 100 2 Thời điểm thả giống (từ tháng 10 đến tháng 12 hàng năm) 115 100 3 Thời gian thu hoạch - Tôm hùm bông: 12 -15 tháng - Tôm hùm xanh: 14 -18 tháng - Tôm hùm đỏ: 10 -12 tháng 115 115 115 100 100 100 Nguồn: Kết quả tổng hợp số liệu điều tra, khảo sát năm 2017 [4] Nguồn thức ăn: Hiện tại, 100% nguồn thức ăn nuôi tôm hùm là thức ăn tươi sống được thu mua và tự tìm kiếm. Qua kết quả điều tra, tại xã Xuân Phương, 56 người nuôi mua thức ăn cho tôm hùm, tỷ lệ 93,3% và có 4 người sử dụng cả mua thức ăn và nguồn thức ăn tự tìm kiếm, chiếm 6,7%. Không có người nuôi nào tự tìm kiếm đủ thức ăn để nuôi tôm. Tại phường Xuân Yên, kết quả điều tra cho thấy: có 50 người (90,9%) tự kiếm nguồn thức ăn. Tuy nhiên, trên thực tế, không có người nuôi nào tự tìm kiếm đủ nguồn thức ăn để nuôi tôm nên vẫn phải thu mua từ các hộ kinh doanh thức ăn nuôi tôm. Lượng thức ăn tươi sống được sử dụng bình quân mỗi ngày/lồng nuôi (kg/lồng/ngày) tại 02 địa điểm nghiên cứu tương tự nhau, chia làm 3 giai đoạn như sau: - Giai đoạn từ tôm giống (tôm trắng) đến cỡ 100g/con: khoảng 1 – 3 kg/lồng/ngày. - Giai đoạn từ 100 – 500 g/con: khoảng 6 – 8 kg/lồng/ngày - Giai đoạn từ 500 – 1.000 g/con: khoảng 8 – 10 kg/lồng/ngày Tỷ lệ trung bình thức ăn dư thừa thải vào môi trường khoảng 25%. Trong đó, tỷ lệ thức ăn dư thừa là ốc khoảng 35 - 40%, thức ăn là cá tạp có tỷ lệ dư thừa khoảng 15 - 20% [4] [9]. 3.2. Kết quả mức độ nhận thức về xử lý chất thải của hoạt động nuôi tôm Xử lý lượng thức ăn thừa trong lồng nuôi: Theo kết quả khảo sát, 100% người nuôi được khảo sát cho biết trước khi cho ăn đều tiến hành kiểm tra để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp nên không có hoặc có rất ít thức ăn thừa trong lồng. Cụ thể, 18,3% người nuôi cho biết có xử lý lượng thức ăn tươi sống thừa trong các lồng nuôi bằng cách lặn thu gom thức ăn cho vào bao hoặc xô rồi mang vào bờ xử lý. Tuy nhiên, có đến 81,7% Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 47 người nuôi không xử lý thức ăn thừa mà dùng tay gạt thức ăn ra khỏi lồng nuôi và thải trực tiếp xuống khu vực nuôi. Tình trạng này kéo dài sẽ gây ô nhiễm môi trường nước, giảm chất lượng môi trường nuôi, gây hiện tượng phú dưỡng môi trường nước sinh ra tảo độc cũng như hàm lượng các chất độc hại trong nước tăng cao. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi lồng bè trên biển, dễ lan truyền gây ô nhiễm và dịch bệnh thủy sản phát sinh làm thiệt hại về kinh tế cho người dân nuôi trồng tôm hùm nói riêng và người dân đánh bắt thuỷ hải sản trên đầm vịnh nói chung. Sử dụng hoá chất, thuốc thú y trong quá trình nuôi: Theo kết quả khảo sát tại 2 xã, do kinh nghiệm nuôi tôm hùm tự đúc kết và học hỏi giữa người nuôi với nhau nên trong trường hợp tôm bệnh, người nuôi sử dụng thuốc kháng sinh và các loại vitamin được sử dụng cho người vào quá trình điều trị bệnh hoặc phòng bệnh trên tôm hùm do giá thành thấp hơn và hiệu quả cao hơn. Cụ thể, tại xã Xuân Phương, có đến 95% hộ sử dụng thuốc kháng sinh, các loại vitamin trong điều trị các bệnh trên tôm hùm và 5% hộ không sử dụng bất kì loại thuốc nào trong quá trình nuôi tôm. Tại phường Xuân Yên, có 85,5% hộ sử dụng thuốc kháng sinh, các loại vitamin trong điều trị các bệnh trên tôm hùm và 14,5% không sử dụng bất kì loại thuốc nào trong quá trình nuôi tôm. Như vậy, bình quân có khoảng 90% người nuôi sử dụng thuốc và chỉ có 10% người nuôi không sử dụng bất kỳ loại thuốc nào trong quá trình nuôi tôm. Hình 5. Tỷ lệ sử dụng hoá chất, thuốc thú y Đánh giá chung: việc sử dụng thuốc thu y tự phát trong xử lý bệnh tôm của các hộ dân tại vùng khảo sát không theo hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương cũng góp phần gây ảnh hưởng đến chất lượng nước nuôi và năng suất nuôi tôm hùm tại địa điểm khảo sát. Nhận thức về môi trường nước nuôi và dịch bệnh: Theo kết quả khảo sát, 100% các hộ nuôi cho biết đã xảy ra dịch bệnh nhiều lần trong quá trình nuôi và 3 loại bệnh thường gặp là bệnh sữa, bệnh đỏ thân và bệnh đen mang. Trong đó, có 100% hộ nuôi cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến dịch bệnh trên tôm hùm là do chất lượng nguồn nước nuôi. 100% người nuôi tôm hùm cũng cho rằng chất lượng nước có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất nuôi tôm hùm, cụ thể là ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, tốc độ sinh trưởng và phát triển của tôm. Tại khu vực khảo sát, 100% người nuôi cho biết lượng thức ăn dư thừa và số lượng lồng nuôi đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng nước vùng nuôi. Riêng tại xã Xuân Phương, 5% hộ cho rằng hoạt động nuôi ốc hương trong khu vực cũng ảnh hưởng đến chất lượng nước vùng nuôi. Kết quả điều tra cũng cho thấy 100% người nuôi tôm hùm đều không sử dụng bất kì loại hóa chất nào để cải tạo nước vùng nuôi. Ngoài ra, 70,6% hộ cho rằng nguyên nhân gây bệnh cho tôm còn do thức ăn. Cụ thể, các loại thức ăn thuộc nhóm giáp xác như: cua, ghẹ, tôm tít đã bị nhiễm bệnh sữa ngoài tự nhiên nên khi sử dụng chúng làm thức ăn mà không lọc kỹ sẽ lây truyền mầm bệnh sang cho tôm nuôi hoặc thức ăn không tươi khi cho tôm ăn cũng dễ gây bệnh. 95% 5% Xã Xuân Phương Sử dụng Không sử dụng 85% 15% Phường Xuân Yên Sử dụng Không sử dụng 48 Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh Kết quả khảo sát cho thấy khi xảy ra dịch bệnh trên tôm hùm, 100% người nuôi đều tiến hành lặn theo dõi và loại bỏ những con tôm bị bệnh để tránh lây bệnh sang các con tôm khỏe. Trong đó, 27% hộ nuôi di chuyển lồng nuôi đến khu vực nuôi mới, 23% vệ sinh lồng bè, sang lồng để cải thiện chất lượng nước trong lồng nuôi và môi trường xung quanh nhằm giảm dịch bệnh trên tôm. Có 75% hộ cho biết có thu gom chất thải sinh hoạt, xác tôm lột trong quá trình nuôi, 25% còn lại thải trực tiếp ra môi trường. Như vậy, trên thực tế tại vùng khảo sát, 100% người nuôi tôm hùm nhận thức được chất lượng nước vùng nuôi có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, hầu hết người nuôi không biết cách kiểm soát và bảo vệ môi trường nước nuôi. Trong đó, thể hiện rõ nhất là việc tăng số lồng nuôi/ha một cách tự phát, sử dụng thuốc kháng sinh và các loại thuốc thúy không theo hướng dẫn, không có biện pháp thu gom thức ăn thừa, chất thải sinh hoạt và chất thải từ hoạt động nuôi tôm mà phần lớn thải bỏ trực tiếp xuống khu vực nuôi. Điều này là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại về mặt môi trường, kinh tế trong hoạt động nuôi tôm hùm lồng bè tập trung tại vùng khảo sát ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. 3.3. Kết quả khảo sát hiện trạng quản lý môi trường nước tại vùng nuôi Về việc đo đạc và giám sát chất lượng nước: Theo kết quả khảo sát, 28% người nuôi được khảo sát cho rằng, thỉnh thoảng, cơ quan nhà nước có đo đạc và lấy mẫu phân tích môi trường nước. Trong khi đó, có 72% người nuôi không rõ vấn đề trên. Cũng theo kết quả khảo sát tại 2 xã, 100% người nuôi từ trước đến nay không trang bị bất kỳ thiết bị xử lý nước nào trong quá trình nuôi tôm hùm. Về việc tuyên truyền về bảo vệ môi trường nước: Kết quả khảo sát cho thấy, 70% người nuôi cho rằng các cơ quan quản lý tại địa phương như: thị xã, xã, thôn thỉnh thoảng có tổ chức, tuyên truyền về việc nuôi tôm hùm và bảo vệ môi trường nước vùng nuôi, 30% không rõ về vấn đề trên. Tại khu vực khảo sát, người dân cũng cho biết đã từng tham gia nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo vệ môi trường nước nuôi. Cụ thể, có 47 người nuôi đã tham gia tuyên truyền bằng hình thức họp khu phố, hợp tổ quản lý dựa vào cộng đồng, chiếm 40,1%; 93 người nuôi tham gia các lớp tập huấn, hội thảo do cán bộ trực tiếp phổ biến, chiếm 80,1% và có 23 người nuôi học hỏi từ các hộ khác, tỷ lệ 20%. Nhìn chung, mặc dù kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ người nuôi tôm hùm tham gia các chương trình tuyên truyền, phổ biến kiến thức về bảo vệ môi trường nước vùng nuôi là khá cao nhưng trên thực tế người nuôi hầu như không áp dụng được các kiến thức đã được cung cấp trong quá trình nuôi. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý cần có những giải pháp cụ thể, hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức của công đồng người nuôi tôm tại vùng khảo sát. Về việc hưởng ứng việc quy hoạch lại vùng nuôi tôm do nhà nước triển khai: Tại địa điểm khảo sát, 70% người nuôi hưởng ứng việc thực hiện quy hoạch vùng nuôi từ phía cơ quan nhà nước triển khai do nhận thấy vùng nuôi tôm hiện tại với mật độ quá cao gây ô nhiễm và ảnh hưởng lớn đến hoạt động nuôi tôm hùm của người dân. Đặc biệt là những người nuôi tự phát, không theo quy hoạch, người nuôi từ địa phương khác đến. Ngoài ra, có 30% người nuôi không hưởng ứng việc quy hoạch với lý do hoạt động nuôi tôm hùm của họ đã ổn định trong thời gian dài. Trên thực tế tại vùng khảo sát, tình trạng người dân tự phát nuôi tôm hùm còn xảy ra phổ biến. Tại địa phương cũng chưa thực hiện quy hoạch chi tiết các vùng nuôi. Vì vậy, chưa có cơ sở để tiến hành giao, cho thuê mặt nước biển nuôi trồng thủy sản gắn với việc quản lý chặt chẽ mật độ lồng bè và môi trường vùng nuôi. Ngoài ra, địa phương cũng chưa quản lý được con giống, kể cả con giống nhập khẩu, luôn tiềm ẩn nguy cơ dịch bệnh. Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh 49 3.4. Một số giải pháp nâng cao nhận thức người nuôi tại vùng khảo sát Để góp phần nâng cao năng suất và phát triển bền vững nghề nuôi tôm hùm, việc nâng cao trách nhiệm cộng đồng người nuôi về bảo vệ môi trường vùng nuôi là một trong những yếu tố hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Cụ thể: - Đẩy mạnh các chương trình tuyên truyền bằng nhiều hình thức đến cộng đồng nhằm giúp người nuôi nắm bắt đầy đủ các thông tin, yêu cầu bảo vệ nguồn nước, tuân thủ theo các quy định trong nuôi trồng thuỷ sản trên mặt nước, lồng ghép yếu tố vệ sinh môi trường, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc chứa và thu gom chất thải. - Tăng cường công tác phối hợp giữa Ủy ban Nhân dân các xã phường với các cơ quan chuyên môn, các Hội, đoàn thể trong công tác vận động, hướng dẫn việc sắp xếp, bố trí lồng nuôi, kỹ thuật nuôi và nhận thức của người nuôi trong việc bảo vệ môi trường nước vùng nuôi. - Củng cố hoạt động của các tổ quản lý cộng đồng NTTS trong việc quản lý chặt chẽ vùng nuôi theo quy chế đã đề ra, nhất là số lượng lồng nuôi, mật độ nuôi và bảo vệ môi trường vùng nuôi; di dời lồng bè còn nằm ngoài vùng qui hoạch và tổ chức sắp xếp vào vùng nuôi theo phương án phân vùng đã được phê duyệt và định hướng phát triển nghề nuôi tôm hùm bền vững. 4. KẾT LUẬN Qua kết quả khảo sát cho thấy: 1. Hiệu quả kinh tế của hoạt động nuôi tôm hùm lồng bè tại vùng khảo sát là rất lớn. Tuy nhiên, với trình độ học vấn còn khá thấp và kinh nghiệm nuôi tôm hùm lồng bè tự đúc kết trong quá trình nuôi dẫn đến người nuôi đang đối mặt với nhiều bất lợi hiện tại và trong thời gian tới, trong đó, điển hình là sự phát triển lồng nuôi tự phát quá mức không theo quy hoạch, mật độ nuôi vượt mức quy định, tập trung vào kỹ thuật nuôi mà chưa chú trọng đến môi trường nuôi sẽ là nguy cơ gây thiệt hại về lợi ích kinh tế và môi trường nghiêm trọng. 2. Nhận thức của người nuôi tôm hùm về vấn đề quản lý môi trường nước chưa cao. Số lượng người nuôi chưa thực hiện việc thu gom, xử lý chất thải sinh hoạt cũng như thức ăn thừa của tôm rất phổ biến. Vì vậy, cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh một cách triệt để công tác tuyên truyền, phổ biến đến người nuôi trong việc bảo vệ môi trường nước vùng nuôi. 3. Việc sử dụng thuốc, hóa chất trong quá trình nuôi tôm hùm cũng chưa được quản lý, đặc biệt là việc sử dụng thuốc khánh sinh của người trong nuôi trồng thủy sản. Vấn đề này sẽ gây tồn dư kháng sinh trong tôm dẫn đến ảnh hưởng chất lượng tôm thương phẩm và sức khỏe của người tiêu dùng. 4. Vấn đề quy hoạch vùng nuôi còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nuôi tôm hùm không nằm trong quy hoạch là khá cao do nhận thức của người dân, tổ chức thực hiện của địa phương, Vì vậy, công tác quy hoạch cần được tiến hành đồng bộ và chặt chẽ trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản, 2012. Báo cáo tóm tắt quy hoạch phát triển tổng thể ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030. [2] Võ Văn Nha, 2014. Nuôi tôm hùm lồng - Thực trạng và một số vấn đề đặt ra. Thông tin thủy sản (3), trang 16-17. [3] = Hiện-trạng-các-nguồn-thải-vào- đầm,-vịnh-tỉnh-Phú-Yên-và-giải-pháp-bảo-vệ-môi-trường. [4] Nguyễn Phú Hoà và các cộng sự, 2017. Đề tài cấp Nhà nước Nghiên cứu giải pháp xử lý ô nhiễm và quản lý môi trường vùng nuôi tôm hùm lồng bè tập trung, 2015-2019 [5] Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, 2015. Báo cáo tổng hợp quy hoạch nuôi tôm hùm đến năm 2020 và định hướng đến 2030. 50 Tạp Chí Khoa Học Giáo Dục Kỹ Thuật Số 53 (07/2019) Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. Hồ Chí Minh [6] Phạm Trường Giang, 2015. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III. Kết quả triển khai quy hoạch phát triển nuôi tôm hùm khu vực miền Trung đến năm 2020 và định hướng 2030. [7] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 3, 2015. Báo cáo tổng hợp quy hoạch nuôi tôm hùm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. [8] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2008. Quyết định số 2383/2008/QĐ-BNN- NTTS ngày 6 tháng 8 năm 2008 về việc ban hành Quy định tạm thời về nuôi tôm hùm. [9] Phòng TNMT Thị xã Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, 2016. Báo cáo tình hình nuôi trồng thuỷ sản lồng bè và phương án thu gom chất thải trong nuôi trồng thuỷ sản. Tác giả chịu trách nhiệm bài viết: ThS. Hoàng Thị Mỹ Hương Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM. Email: htmhuong@hcmuaf.edu.vn PGS.TS. Nguyễn Phú Hoà Trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM. Email: phuhoa@hcmuaf.edu.vn
File đính kèm:
- nghien_cuu_danh_gia_hien_trang_va_muc_do_nhan_thuc_cua_nguoi.pdf