Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và thăm dò khả năng sản xuất giống trên ngao móng tay chúa Cultellus maximus Gmelin, 1791
TÓM TẮT
Nghiên cứu thành công sinh sản nhân tạo ngao móng tay chúa, Cultellus maximus (Gmelin, 1791),
sẽ góp phần chủ động nguồn giống phục vụ nuôi thương phẩm cũng như đa dạng hóa đối tượng
nhuyễn thể nuôi. Bài báo này trình bày những kết quả mới nhất về nghiên cứu đặc điểm sinh học
sinh sản, thu thập, thuần dưỡng, đánh giá vùng phân bố, các biện pháp kích thích sinh sản và ương
nuôi từ giai đoạn ấu trùng đến giống. Ngao móng tay chúa là loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ có kích
thước khi thành thục sinh dục dài từ 12-15 cm, thích nghi với điều kiện nhiệt đới, tỷ lệ phần trăm
thành thục sinh dục cao nhất vào tháng 1. Mẫu được thu thập ở huyện Cái Nước và huyện Đất
Mũi thuộc tỉnh Cà Mau. Trong quá trình kích thích sinh sản, phương pháp sốc hạ nhiệt cho tỷ lệ
phần trăm sống cao hơn các phương pháp còn lại. Ngao móng tay chúa có sức sinh sản trung bình
1.744.175 ấu trùng. Trứng sau khi thụ tinh có đường kính 80 µm. Ấu trùng được ương trong bể
phát triển qua các giai đoạn bánh xe, chữ D, chân bò và giống. Ương ấu trùng đến giai đoạn giống
đạt tỷ lệ sống 0,93%.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản và thăm dò khả năng sản xuất giống trên ngao móng tay chúa Cultellus maximus Gmelin, 1791
cơ khép vỏ và sự phát triển của vòi xi phông. Kích thước ấu trùng tĕng trưởng nhanh. Phân chia giai đoạn này thành 3 giai đoạn nhỏ với các đặc điểm sau. Spat đầu kỳ: Từ hậu kỳ đỉnh vỏ chuyển sang đã hình thành chân và thấy rõ vòi hút, thoát nước. Đa số nằm yên trên đáy có một số di động trên nền đáy, kích thước ấu trùng 260- 350 µm. Ngao móng tay chúa giống (Juvenile) xuất hiện sau 15 ngày với kích thước 850-950 µm. Sau khoảng 15 ngày ấu trùng juvenile sống ổn định dưới nền đáy. Hình dạng giống hệt ngao móng tay chúa trưởng thành, tỷ lệ giữa chiều cao và chiều rộng xấp xỉ 0,5. Qua bảng trên, chúng tôi nhận thấy rằng ở các đợt sinh sản tháng 10-12, nĕm 2015, tỷ lệ sống ở giai đoạn hình chữ D đến đỉnh vỏ rất thấp từ 4,3-9,2%. Nguyên do ở các đợt sản xuất này mới và chưa chuẩn bị ương nuôi sinh khối tảo ngoài trời gặp khó khĕn, không đảm bảo chất lượng cũng như về số lượng. Chúng tôi có bổ sung thêm tảo khô và men bánh mì làm thức ĕn cho ấu trùng giai đoạn này, chính vấn đề này gây ô nhiểm môi trường ương làm ảnh hưởng đến chất lượng ấu trùng. 3.3.5. Kết quả tỉ lệ sống của ngao móng tay chúa ở giai đoạn giống Bảng 6. Tỷ lệ sống (%) của ấu trùng ngao móng tay ở giai đoạn xuống đáy - giống (2mm) Số lượng (1.000 con) 100% bùn 70% bùn+30% cát mịn 100% cát mịn Đáy lưới (không cát, bùn) 1mm 2mm 1mm 2mm 1mm 2mm 1mm 2mm 232 0,7% (1,62) 0 0 0 3% (6,96) 0,1% (0,23) 4% (9,2) 0,9% (2,08) 234 0,8% (1,87) 0 0 0 5% (11,73) 0,3% (0,70) 6 % (14) 1,1% (2,5) 255 0,6% (1,27) 0 0 0 4% (10,23) 0,2% (0,51) 4,5% (11) 0,8% (2,04) Tổng cộng 4,7 0 0 0 28,92 1,43 34,79 6,62 Trung bình 0,6% 0 0 0 4% 0,2% 4,8% 0,93% Bảng 5. Tỷ lệ sống của ấu trùng ngao móng tay chúa ở giai đoạn trôi nổi-xuống đáy Đợt Ấu trùng thụ tinh (con) Ấu trùng chữ D Đỉnh vỏ Con Tỷ lệ sống (%) Con Tỷ lệ sống (%) 1 9.288.000 2.507.760 27% 107.834 4,3 2 14.069.600 3.517.400 25% 232.148 6,6 3 10.347.000 3.724.920 36% 234.670 6,3 4 8.179.500 2.781.030 34% 255.855 9,2 40 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Kết quả các đợt thí nghiệm cho thấy tỷ lệ sống phụ thuộc vào nền đáy khác nhau, tỉ lệ sống con giống ngao móng tay chúa đạt tỷ lệ sống ở nền đáy 100% bùn ở kích cỡ 1mm với tỉ lệ sống 0,6% (tổng số lượng con giống có kích cỡ 1mm thu được ở bốn nghiệm thức là 68.500 con) và chết dần khi ương nuôi đến kích cỡ 2mm. Ở nền đáy có bố trí 70% bùn+30% cát mịn hầu như chúng tôi không thu được con giống nào. Ở nền đáy có bố trí cát mịn và lưới lần lượt cho ra kết quả tỷ lệ sống kích cỡ 1mm là 4% và 4,8%. Sau 7-10 ngày ương giai đoạn lên 2mm chúng có hình dáng như ngao móng tay chúa trưởng tỷ lệ sống chỉ sống đạt 0,93% (tổng số lượng con giống có kích cỡ 2mm thu được ở bốn nghiệm thức là 8.050 con). IV. THẢO LUẬN Hiện nay, ở Việt Nam, những nghiên cứu về ngao móng tay chúa chưa được thực hiện nhiều nên nguồn tài liệu tham khảo chưa phong phú. Dựa vào khóa phân loại Cosel, R.Von (1990) và Habe, T.,1964, Hylleberg và Kilburn, 2003. Ngao móng tay chúa bên ngoài của vỏ các vân tĕng trưởng phát triển đều và song song từ đỉnh vỏ đến mép vỏ. Vỏ mềm mỏng, bản lề yếu ớt, với ít nhất 1 rĕng cưa. Bản lề vỏ rõ rệt là điểm nối lưng và mép vỏ. Tỷ lệ chiều dài bản lề vỏ đến mép vỏ chân đào và bản lề vỏ đến mép vỏ ống siphon thường là 1/3. Ngao móng tay chúa trưởng thành trung bình có chiều dài từ 13- 15cm, rộng khoảng 4-4,5 cm với độ dày của thân khoảng 1,7-2,2 cm và trọng lượng khoảng 140-160g/con. Về hình thái cấu tạo bên ngoài khi quan sát có thể thấy ngao móng tay chúa có cơ thể dẹp và phần thân đối xứng. Phần đầu tiên dẹt giúp chúng có thể lẩn trốn xuống bùn cát dễ dàng hơn. Chân chúng hình lưỡi rìu, khi di chuyển chân sẽ thò ra ngoài. Phía ngoài vỏ ngao móng tay chúa có lớp bì màu vàng hoặc nâu, từ đỉnh vỏ xuống có nhiều vành màu nâu đậm, màu sắc của vỏ thẫm hay nhạt là tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố của môi trường tác động. Ngao móng tay chúa sống trong tầng đáy bùn cát ở nơi có thủy triều lên xuống và cũng được tìm thấy trong vùng nước nông. Ngao móng tay chúa phân bố tự nhiên dọc theo các vùng bãi triều nông có độ sâu 1-6m, có nền đáy là bùn mịn hoặc bùn cát giàu chất hữu cơ, phân bố từ Bà Rịa – Vũng Tàu đến Cà Mau. Ngao móng tay chúa có tập tính sống trong hang và di chuyển theo chiều dọc trong lớp bề mặt phía trên nhờ vào sự co rút của cơ chân. Khi di chuyển, chân đào bùn cát, sau phình to móc vào đất rồi kéo phần còn lại của cơ thể. Chỉ cần một vài lần co cơ là chúng vùi cơ thể sâu xuống bùn cát. Độ sâu và đường kính của hang phụ thuộc vào kích cỡ của ngao móng tay chúa, chất nền và mùa. Độ sâu của hang thường 30-50cm. Qua bảng 1, việc kích thích sinh sản bằng 4 phương pháp khác nhau, một số kết quả đã được ghi lại. Các đợt thí nghiệm bằng 4 phương pháp, kết quả kiểm tra đều cho thấy có sự phóng trứng và tinh tử diễn ra. Thời gian hiệu ứng ở phương pháp (Serotonine và sốc hạ nhiệt) là phương pháp kích thích ngao móng tay chúa sinh sản nhanh nhất với khoảng thời gian là 1 giờ 45 phút đến 2 giờ. Còn ở phương pháp ngâm trong NH 4 OH 1% là 3-4 giờ và sốc tĕng nhiệt là 6-8 giờ. Tỷ lệ cá thể tham gia sinh sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường, mùa vụ, mức độ thành thục của tuyến sinh dục, phương pháp kích thích và số lần lặp lại chu kỳ kích thích. Kết quả (Bảng 1) cho thấy dù số con cùng kích cỡ đem kích thích là như nhau nhưng cá thể tham gia sinh sản ở các nghiệm thức 41TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II là khác nhau. Với những phương pháp kích thích khác nhau sẽ cho kết quả thời hiệu ứng tham gia sinh sản cũng sẽ khác nhau. Điều này chứng tỏ đối với nhuyễn thể nói chung và ngao móng tay chúa nói riêng, quá trình thành thục và tham gia sinh sản phụ thuộc vào mùa vụ và kích cỡ thành thục. Qua các phương pháp kích thích sinh sản, xét về hiệu quả kinh tế, thì phương pháp sốc hạ nhiệt là nên được ưu tiên chọn làm phương pháp kích thích chủ yếu. Sức sinh sản thực tế được xác định là số lượng trứng trên một cá thể trong một đợt. Sự thành thục của noãn bào trứng của ngao móng tay chúa cũng như với nhiều loài hai mảnh vỏ khác là không đồng nhất. Trên cùng một buồng trứng luôn có các noãn bào trứng ở nhiều giai đoạn phát triển. Trong mùa vụ sinh sản, số lượng noãn bào thành thục luôn chiếm tỷ lệ lớn. Bên cạnh đó là các noãn bào non, tuy nhiên phần lớn ở giai đoạn chuẩn bị thành thục. Do đó mà trong mùa sinh sản ngao móng tay chúa thường sinh sản thành nhiều đợt. Tùy theo mức độ thành thục, số lượng noãn bào chín trong buồng trứng mà số trứng phóng thích ra khác nhau. Từ bảng 4 cho thấy sức sinh sản thực tế của các nhóm ngao móng tay chúa dao động từ 1,6-1,8 triệu trứng/con/lần sinh sản (TB 1,74 triệu trứng/con/lần). Sự khác nhau về kết quả nghiên cứu trên là do chất lượng thành thục của con bố mẹ và hiệu ứng do kích thích sinh sản cũng như khối lượng bố mẹ. Kích thước và khối lượng ngao móng tay chúa bố mẹ, mức độ thành thục, sự chín muồi của tuyến sinh dục là yếu tố chính quyết định đến sức sinh sản thực tế. Ngoài ra, sự kích thích sinh sản cũng là yếu tố quan trọng, nếu cá thể mẹ phản ứng kém với sự kích thích sinh sản thì các noãn bào mặc dù chín muồi nhưng cũng không thể thoát ra hết mà chúng vẫn còn sót lại và có thể được sinh sản vào đợt sau hoặc bị thoái hóa. Theo dõi một số đợt sinh sản của ngao móng tay chúa, chúng tôi thấy số lượng trứng phát triển đến giai đoạn ấu trùng chữ D khỏe mạnh chỉ đạt 25-36% tổng lượng trứng phóng thích ra (trung bình đạt 30,5%). Tùy theo chất lượng ngao móng tay chúa bố mẹ, điều kiện môi trường, mật độ ương, ấp mà tỷ lệ ấu trùng chữ D khỏe mạnh khác nhau. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, ở giai đoạn ngao móng tay chúa xuống đáy đến đạt kích thước 1mm có tỉ lệ sống cao với chất nền đáy là cát và lưới với bề mặt mềm, mịn, bằng phẳng và không gây ô nhiễm môi trường nước. Bảng 6 cho thấy ngao móng tay chúa sống ít hoặc không sống tại nơi có chất nền đáy nhiều bùn, do điều kiện bố trí ương chưa chuẩn làm đáy bùn bị ô nhiễm môi trường đáy làm cho ngao móng tay chúa chết. Ngao móng tay chúa thường vùi mình dưới bùn do đó oxy, thức ĕn cung cấp cho ngao móng tay chúa thiếu hụt dẫn đến giảm tỉ lệ sống. Ngoài ra, ngao móng tay chúa có cơ chế hấp thu thức ĕn thụ động điều này được chúng tôi kiểm chứng bằng cách tiến hành kiểm tra trong dạ dày và thấy rất ít tảo mà chỉ có những hạt bùn, đây là nguyên do chính làm cho ngao móng tay chúa giống không ĕn tảo tươi do chúng nằm trong nền đáy nhiều bùn. Ở giai đoạn từ đỉnh vỏ đến giống sử dụng hỗn hợp tảo làm thức ĕn tươi sống cho ấu trùng. Kết quả các đợt thử nghiệm ương ngao móng tay chúa cho thấy tỷ lệ sống từ ấu trùng trôi nổi đến giai đoạn xuống đáy chưa ổn định. Qua các đợt sản xuất, từng bước đã hoàn thiện quy trình sản xuất giống nhân tạo, đề tài đã thử nghiệm các đợt sản xuất với tỷ lệ sống từ giai đoạn xuống đáy đến giai đoạn con giống 1-2 mm sau 15-17 ngày ương là ≤1%. Tuy nhiên, đây mới chỉ là kết quả bước 42 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II đầu thĕm dò sinh sản của ngao móng tay chúa – một đối tượng hoàn toàn mới nên cần có thêm nhiều nghiên cứu hoàn thiện thêm nhằm nâng cao tỷ lên giống. V. KẾT LUẬN Ngao móng tay chúa là loài phân tính rõ rệt. Con đực và cái rất khó phân biệt chỉ có thể phân biệt được bằng mắt thường trong mùa sinh sản khi đã thành thục sinh dục. Mùa vụ sinh sản của ngao móng tay chúa đỉnh cao là tháng 11 đến tháng 02 nĕm sau. Kích thích sinh sản cho ngao móng tay chúa bằng phương pháp sốc hạ nhiệt là phương pháp phù hợp nhất với thời gian hiệu ứng là 60 phút. Ở nhóm ngao móng tay chúa có kích cỡ 120-150 g/con có tỷ lệ thành thục: 68,6%, tỷ lệ tham gia sinh sản là 100%. Có sức sinh sản tuyệt đối trung bình là 5,59 triệu/các thể. Khi ngao móng tay chúa sinh sản trứng quá trình biến thái từ trứng thụ tinh đến con giống từ 9-15 ngày. Ấu trùng trải qua các giai đoạn phát triển từ trứng thụ tinh đến phôi vị, ấu trùng bánh xe, ấu trùng chữ D, ấu trùng đỉnh vỏ, ấu trùng chân bò và giai đoạn con giống. Giai đoạn sống đáy đạt ở kích cỡ 1mm là 4-4,8% và kích cỡ 2mm 0,93%. 43TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Dương Vĕn Hiệp, 2005. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản ngao dầu Meretrix meretrix (Lineus, 1758) ở vùng biển Cát Hải– Hải Phòng. Luận vĕn thạc sĩ nông nghiệp. Hà Đức Thắng, 2004. Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ sản xuất giống và thử nghiệm mô hình nuôi tu hài (Lutraliaphilippinarum) thương phẩm. Đề tài nghiên cứu khoa học. Lê Đức Minh,2000. Nghiên cứu đặc điểm sinh học sinh sản của bào ngư (Haiotis) ở vùng biển Nha Trang, Khánh Hòa. Luận án tiến sĩ khoa học sinh học. 127 trang. Lê Trung Kỳ và ctv., 2005. Thức ĕn thích hợp cho sò huyết trong sản xuất giống. Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần thứ 4. 5-6 /9/2005. Nhà Xuất bản Nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh. 263-269. Nguyễn Chính, 1999. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo và nuôi cấy trai ngọc loài Pinctadamaxima, Jameson,1901. Đề tài nghiên cứu khoa học. Nguyễn Thị Xuân Thu, 2005. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi động vật thân mềm. Giáo trình cao học.193 trang. Trang 28. Tạ Vĕn Phương và Trương Quốc Phú, 2003. Thử nghiệm nuôi sò huyết trong ao nước tĩnh. Hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần thứ 3. 11-12/9/2003. Nhà xuất bản Nông nghiệp Tp. Hồ Chí Minh. Trang 131-138. Trần Hoàng Phúc, 2007. Tiềm nĕng-thực trạng và giải pháp nuôi nghêu, sò huyết xuất khẩu ở Trà Vinh. Báo cáo khoa học hội thảo động vật thân mềm toàn quốc lần thứ 5. Tài liệu tiếng Anh Baroon, L.E., Real, N. F., Ciocco, M.E.R. , 2004. Morphometry, growth and reproduction of an Atlantic population of the razor clam Ensismacha (Molina, 1782). Sci. Mar. 68 (2). p. 211-217. Quayle, D. B., và Newkirk, G . F . , 1989. Farming Bivalve Molluscs: Methods for Study and Development. Advances in World Aquaculture Series. World Aquaculture Society, Baton Rouge, LA. 294p. Yan, H. W., 1991. Studies on Reproductive Physiology of Sinonovacula constricta and Cyclinasinensis. Training manual on breeding and culture of scallop and seacucumber in China.Yellow Sea Fisheries Research Institute in Qingdao. Hylleberg , J., và Kilburn, R. N., 2003. Marine molluscs of Vietnam - Polyplacophora, Gastropoda, Cephalopoda, Bivalvia, Scaphopoda. Phuket Marine Biological Center Special Publication. 300p: p.196. Nguyen Duc Minh, Saran Petpiroon, Shettapong Meksumpun, Suriyan Tunkijjanukij and Padermsak Jarayabhand. 2009. Early juvenile rearing of the donkey’s ear abalone (Haliotis asinina Linnaeus, 1758) in Sichang Island, Thailand. Journal of Chulalongkorn University. p.109 – 123. Pathansali, D., 1963. On the effect of sanility changes on the activity of the cockle Anadara granosa L. Malaysia Agri. J. 44: 18-25. 44 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II STUDY ON REPRODUCTIVE BIOLOGY AND ARTIFICIAL BREEDING IN RAZOR CLAM (Cultellus maximus GMELIN, 1791) Nguyen Duc Minh1*, Do Thi Phuong1 ABSTRACT Study on artificial breeding in Razor clams (Cultellus maximus, Gmelin 1791) will help to provide artificial seed for grow-out as well as to diversify culture species. This paper presents the results of the latest research on the characteristics of reproductive biology; collection, acclimation and assess- ment of distribution of razor clam; as well as on the methods for induced spawning and rearing from larval stage to juveniles. The razor clam is a bivalve mollusc species, with adult size from 12-15 cm. This species has been adapted to tropical conditions, with highest percentage of sexual maturity in January. The sample was collected in Cai Nuoc and Dat Mui, Ca Mau province. Temperature shock was shown to be the most effective method for inducing spawning, that gave the highest survival of clam larvae. One female razor clam can spawn 1,744,175 larvae in average. Fertilized egg mea- sured 80 µm in diameter. Razor clam larval stages included trochophore, straight-hinge, creeping and spat stages. A survival rate of 0.93 % was obtained during rearing from larvae to juveniles. Keywords: Razor clam, artificial brreding, reproductive biology. Người phản biện: ThS. Nguyễn Đinh Hùng Ngày nhận bài: 05/8/2016 Ngày thông qua phản biện: 11/8/2016 Ngày duyệt đĕng: 05/9/2016 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2 *Email: minhria2@yahoo.com
File đính kèm:
- nghien_cuu_dac_diem_sinh_hoc_sinh_san_va_tham_do_kha_nang_sa.pdf