Nâng cao năng suất và tính bền vững của tôm nuôi trong hệ thống canh tác tôm lúa ở xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau
TÓM TẮT
Mô hình nuôi tôm quảng canh kết hợp với trồng lúa chiếm diện tích tương đối lớn ở Cà Mau. Đặc
điểm của mô hình này là thả tôm mật độ thưa, diện tích rộng nên bà con chỉ áp dụng biện pháp kỹ
thuật ở mức độ thấp. Mặc dù các rủi ro đối với vụ nuôi giảm thấp do các hệ thống nuôi có mức độ
thâm canh thấp, vẫn còn có một số vấn đề gặp phải: dịch bệnh, ao không giữ nước và năng suất thấp.
Vì vậy, hệ thống canh tác lúa-tôm đã trở nên ngày càng khó khăn trong quản lý, dẫn đến ảnh hưởng
đến sinh kế của người nông dân. Nghiên cứu này nhằm đánh giá các biện pháp kỹ thuật như gia cố
bờ bao, thiết kế lại đồng ruộng, ao ương, chuyển giao một số kỹ thuật nuôi tôm đến hiệu quả của
mô hình tôm- lúa. Kết quả cho thấy, các biện pháp kỹ thuật đã có đóng góp tích cực vào sản lượng
tôm của mô hình khi so sánh với các hộ đối chứng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng suất và tính bền vững của tôm nuôi trong hệ thống canh tác tôm lúa ở xã Hòa Mỹ, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau
ùy theo hiện trạng diện tích và cấu trúc đất của các nông hộ, hệ thống nuôi như Bảng 2. Bảng 2. Kích thước và diện tích các nông hộ nhóm thực nghiệm Nông hộ Ao lắng (m2) Ao ương (m2) Ao BTC (m2) Ao QCCT (m2) Tổng diện tích mặt nước nuôi (m2) M1 800 1.600 3.000 17.000 22.400 M2 1.000 1.600 3.000 20.000 25.600 M3 1.000 2.000 2.300 38.000 43.300 M4 800 3.000 3.000 35.000 41.800 M5 1.000 2.000 3.500 22.000 28.500 M6 1.000 2.000 3.000 25.000 31.000 Bảng 3. Kích thước và diện tích các mô hình nuôi đối chứng Nông hộ Ao QCCT (m2) C1 20.500 C2 17.000 C3 28.000 C4 21.000 C5 16.000 C6 20.000 2.4 Bố trí thả giống và mật độ thả Đối với ao QCCT ở mô hình thực nghiệm: Tôm giống thả 3 lần/vụ, trong đó có 2 lần thả trực tiếp tôm giốngvới mật độ là 2 con/m2 và 1 lần thả tôm ương (từ ao ương) mật độ 1 con/ m2. Cả 6 mô hình đối chứng thả 3 lần/vụ, mật độ tôm giống thả mỗi lần là 2 con/m2. Đối với ao nuôi BTC: Tất cả 6 mô hình thả tôm sú lần 1 với cùng mật độ là 12 con/m2, và 3 mô hình M1, M2, và M4 thả tôm thẻ lần 2 với mật độ lần lượt là 40, 75 và 50 con/m2. 68 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 2.5 Phương pháp cải tạo ao và chuẩn bị nước trước thả giống - Dọn vệ sinh quanh ao, gia cố bờ bao bằng cơ giới. - Diệt cá tạp bằng dây thuốc cá. - Phơi ao, thời gian phơi từ 5-10 ngày tùy kiều kiện từng ao Chuẩn bị nước ao QCCT - Nước được lấy vào ao qua lưới mành. - Mức nước trên trảng từ 0,2-0,4 mét và ở mương từ 1,2-1,4 mét. - Sau 3-5 ngày bón phân gây màu nước màu (DAP hoặc NPK) với liều lượng 1-2 kg/1.000 m3 cho đến khi độ trong đạt khoảng 30-40 cm. 2.6. Chọn tôm giống và thả giống Tất cả 12 mô hình đều chọn tôm giống như nhau. Tôm giống được chọn lựa đạt tiêu chuẩn ngành và được đánh giá chất lượng thông qua cảm quan và kiểm tra mô học tại Phân Viện Nghiên cứu Thủy sản Minh Hải không mang một số bệnh nguy hiểm thường gặp như bệnh đốm trắng, bệnh đầu vàng, bệnh còi và bệnh gan tụy. Tôm được thả vào sáng sớm. Trước khi thả ra môi trường nước, bao tôm được thả trôi nổi trên mặt nước từ 15-30 phút để cân bằng nhiệt độ sau đó mới thả tôm ra. 2.7. Thu thập số liệu Các yếu tố môi trường: pH, oxy hòa tan đượctheo dõi lúc 6 giờ sáng và 14 giờ chiều; 3 ngày/lần trong ao nuôi BTC và ao QCCT. Các yếu tố này được được đo bằng máy đo điện cực Aqua-D. Độ mặn, nhiệt độ được theo dõi hàng ngày bằng logger và chỉ theo dõi ở ao nuôi QCCT. Độ kiềm được đo định kỳ 10 ngày/lần bằng testkit trong ao nuôi BTC. Số lượng tôm, cua thu hoạch và thả giống của nông hộ được thu thập bằng cách gửi nông hộ một quyển nhật ký để ghi chép, sau đó cán bộ dự án sẽ đến từng nhà để thu thập các số liệu này mỗi tuần. 2.8. Phương pháp thu hoạch Sử dụng phương pháp thu tỉa để thu tôm đạt kích cỡ thương phẩm trong ao nuôi QCCT. Dụng cụ thu tỉa là các lú thưa đặt trong mương. Đến cuối vụ đặt lú có mắt lưới nhỏ ở cống và tháo nước để thu toàn bộ. Đối với ao nuôi BTC thì thu hoạch một lần. 2.9. Phương pháp xử lý số liệu và đánh giá các chỉ tiêu thu hoạch từ các mô hình - Sử dụng phần mền Excel để tính toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và vẽ đồ thị. - Đánh giá tỷ lệ sống của tôm: Thông qua số lượng giống thả và số lượng thu hoạch được. Tỷ lệ sống = {Số lượng tôm thu hoạch (con) /Số lượng tôm thả nuôi (con)}* 100 - Hệ số chuyển đổi thức ăn: FCR= {Lượng thức ăn sử dụng (kg)/ Lượng tôm thu hoạch (kg)}*100 - Năng suất quy đổi tôm các mô hình: P (kg/ha) P = {Sản lượng tôm thu (kg)/diện tích (ha)} III. KẾT QUẢ 3.1 Kết quả theo dõi các yếu tố môi trường ao nuôi QCCT ở hai mô hình 3.1.1 Nhiệt độ Sự biến động về nhiêt độ trong ruộng được thể hiện ở Hình 3. Nhiệt độ trung bình ở hai nhóm thử nghiệm và đối chứng không có sự khác biệt. Nhiệt độ trung bình trong ao cao nhất là ở tháng 4 (330C), sau đó giảm dần khi mùa mưa đến rồi tăng lại vào tháng 8 khi giai đoạn chuẩn bị ruộng để gieo xạ lúa. Chênh lệch nhiệt độ vào ban ngày và ban đêm trong ruộng rất rõ rệt, đặc biệt ở trên trảng với mực nước trung bình là 20 cm (Hình 4). 69TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 3. Nhiệt độ trung bình trong ao quảng canh cải tiến Hình 4. Biến động nhiệt độ trong ao vào giữa mùa khô 3.1.2 Oxy hòa tan Hàm lượng oxy hòa tan rất cao (7 mg/l) vào buổi chiều tuy nhiên lại rất thấp vào sáng sớm (1-2 mg/l) ở cả hai nhóm nghiên cứu (Hình 5,6). Hình 5. Oxy hòa tan buổi sáng và chiều trong ao QCCT 70 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Hình 6. Biến động hàm lượng oxy hòa tan trong ao vào giữa mùa khô 3.1.3 Độ mặn Độ mặn trong các ao của hai nhóm nghiên cứu giảm dần từ tháng 4 khi mùa mưa đến (Hình 7). Hình 7. Diễn biến độ mặn trong ao quảng canh 3.2 Các yếu tố môi trường ao nuôi BTC bậc thấp Nhìn chung, điều kiện môi trường ao nuôi thuận lợi cho sự phát triển bình thường của tôm. Các ao có độ sâu trung bình là 1,1 m nên nhiệt độ, pH dao động trong ngày không lớn. Tuy nhiên, độ kiềm ở một số mô hình cao (trên 150 mg CaCO3/l). Bảng 4. Các yếu tố môi trường ao nuôi BTC Yếu tố Mô hình M1 M3 Oxy hòa tan (mg/l) 4,3–7,2 3,8-8,13 pH 7,67-7,86 7,71-8,79 Kiềm (mg CaCO3/l) 150 100-180 3.3 Ao ương Tỷ lệ sống của tôm đạt 19-29% sau 60 ngày với kích cỡ 2-3 g/tôm 3.4 Tôm thu hoạch ao bán thâm canh Tỷ lệ sống của các ao dao động từ từ 41- 87,6%. Hệ số thức ăn dao động từ 1,06 - 1,44. Bảng 5. Sản lượng tôm thu hoạch, tỷ lệ sống, FCR ở các ao nuôi BTC Nông hộ Tôm nuôi Thu hoạch (kg) Tỷ lệ sống (%) FCR M3 Tôm sú 532 41,2 1,44 M1 Tôm thẻ 1.100 87,6 1,06 3.5 Năng suất tôm từ ao QCCT Sản lượng tôm thu hoạch của các nông hộ tương đối thấp, từ 43-136 kg/ha, trung bình ở các hộ thử nghiệm là 90 kg/ha và ở các hộ đối chứng là 81 kg/ha. Tỷ lệ sống của tôm trong ruộng đạt 1,5-6%. Kích cỡ tôm thu hoạch dao động từ 16,6- 41,6 g tùy vào nông hộ. 71TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Bảng 6. Sản lượng tôm thu hoạch ở hai mô hình Nhóm Tôm (kg) Tỷ lệ sống (%) Cua (kg) Năng suất tôm (kg/ha) Thực nghiệm M1 189 6,0 82 111 M2 157 3,0 18 79 M3 299 4,5 200 85 M4 341 4,4 440 90 M5 182 3,5 180 91 M6 139 2,9 136 82 Đối chứng C1 149 3,2 120 73 C2 73 1,5 96 43 C3 152 3,9 0 54 C4 219 5,4 60 104 C5 125 4,8 0 78 C6 272 4,0 101 136 mô hình thử nghiệm thấp hơn so với mô hình đối chứng do bờ bao ở mô hình thử nghiệm đã được gia cố nên giữ nước tốt, ít bị rò rỉ sang ao lân cận. Duy trì mực nước cao trên trảng sẽ góp phần giảm tác động của nhiệt độ cao mùa khô, từ đó giảm stress đối với tôm, giúp tôm gia tăng thời gian bắt mồi (Wyban và ctv., 1995). Nhiệt độ cao trong nước ao ở tháng 5-6 cũng trùng khớp với hiện tượng tôm ốp thân, không lột xác được. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ việc tôm không tìm đủ thức ăn cho nhu cầu duy trì. Hàm lượng oxy hòa tan thấp vào sáng sớm trong các mô hình cũng là một trở ngại lớn để nâng cao tỷ lệ sốngcũng như tăng trưởng của tôm (Rosas và ctv., 1997). Chỉ số này thường thấp dưới 1 mg/l ở đáy ao. Hiện tượng oxy hòa tan thấp kéo dài trong vụ nuôi mặc dù không gây chết cho tôm trong điều kiện ao quảng canh nhưng sẽ kìm hãm tăng trưởng của tôm và tôm dễ bị nhiễm bệnh hơn (Allan & Maguire, 1991). Biến động nhiệt độ lớn, hàm lượng oxy hòa tan thấp vào buổi sớm dường như là bản chất của hệ thống nuôi quảng canh. 3.6 Tổng sản lượng tôm trong mỗi mô hình Tổng sản lượng tôm thu trên một đơn vị diện tích ở mô hình thực nghiệm cao hơn nhiều so với mô hình đối chứng (3.760 kg/ha so với 101 kg/ha). Bảng 7. Năng suất tôm ở hai nông hộ điển hình của mỗi mô hình Nhóm Tôm (kg/ha) Đối chứng 101 Thực nghiệm 3.760 IV. THẢO LUẬN Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tăng trưởng của tôm (Wyban và ctv., 1995). Nhiệt độ nước ban ngày ở trảng cao, từ 32-340C, đặc biệt trong giai đoạn từ giữa tháng 4 đến đầu tháng 6. Nhiệt độ nước ở trong mương trong cùng thời gian cũng trên 330C, ảnh hưởng đến việc bắt mồi của tôm vào ban ngày khi khoảng nhiệt độ phù hợp cho tăng trưởng bình thường của tôm 29-320C (Chen, 1999; Deering, 1995). Nhiệt độ trung bình ở 72 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Năng suất tôm trung bình trong cả hai mô hình trong nghiên cứu này tương đối thấp (81- 90 kg/ha) so với những công bố trước đây, 250- 300 kg/ha (Sở NN&PTNT Cà Mau, 2014; Thiều Lư, 2010). Tỷ lệ sống của tôm khá thấp ở cả hai mô hình. Ở các hộ thử nghiệm đã có đê bao chắc chắn giữ được mức nước theo yêu cầu kỹ thuật, sên vét mương sâu hơn, con giống qua kiểm tra chất lượng, quản lý chặt chẽ môi trường ao nuôi, mật độ thả các đối tượng hợp lý, cũng như việc đưa tôm từ ao ương có kích cỡ lớn ra ruộng ở các mô hình thử nghiệm nhưng kết quả không khả quan hơn so với các hộ đối chứng. Bên cạnh môi trường khắc nghiệt thì nguyên nhân của năng suất thấp có lẽ là ruộng đã nghèo thức ăn tự nhiên do không trồng lúa được trong vài năm trở lại đây. Hiện tượng tôm ốp thân, mềm vỏ phần nào nói lên việc thiếu thức ăn trong ao. Thông thường việc thả con giống có kích cỡ lớn mang lại tỷ lệ sống cao (83-94%) do khả năng bắt mồi và chống chọi với cua, cá trong ao tốt hơn tôm post (Minh, 2003). Vì vậy các giải pháp kỹ thuật sẽ chưa thuyết phục nếu không có giải pháp về cải thiện thức ăn tự nhiên trong ao. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh lợi ích to lớn của việc trồng lúa trong mô hình quảng canh cải tiến. Việc chuyển đổi một phần diện tích tôm-lúa thành ao nuôi bán thâm canh cho thấy mang lại lợi ích gấp nhiều lần trên một đơn vị diện tích. Với sự hỗ trợ về kỹ thuật nuôi, quản lý ao, con giống chất lượng cộng với sự nỗ lực của các hộ thử nghiệm sẽ là nền tảng vững chắc để người nông dân vươn lên làm chủ kỹ thuật nuôi từ đó nâng cao thu nhập từ ao nuôi của mình. Mặc dù vẫn còn có hộ chưa thành công nhưng với 4/6 hộ nhóm thực nghiệm có thu hoạch nên bà con đều rất tin tưởng vào kỹ thuật nuôi nắm bắt được từ dự án để từ đó có thể độc lập canh tác khi dự án kết thúc. Các số liệu về sản lượng tôm thu hoạch, số lượng tôm thả giông trong nghiên cứu này được thu thập khá công phu bằng việc thường xuyên tiếp xúc với người nông dân (mỗi tuần). Nên các số liệu này là rất cập nhật và chính xác với thực tế ở nông hộ ở mô hình quảng canh cải tiến. VI. KẾT LUẬN Kết quả cho thấy, các biện pháp kỹ thuật đã có đóng góp tích cực vào sản lượng tôm của mô hình khi so sánh với các hộ đối chứng.Việc thiết kế thêm ao mới để ương hoặc nuôi bán thâm canh là cần thiết để góp phần cải thiện năng suất, sản lượng tôm của mô hình tôm lúa. LỜI CẢM ƠN Nhóm tác giả chân thành cám ơn sự hỗ trợ tài chính từ dự án SMCN/2010/083 do Cơ quan Nghiên Cứu Nông Nghiệp Úc ở nước ngoài, ACIAR,tài trợ. 73TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Sở Nông nghiệp và Phát triển nông Cà Mau, 2014. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch năm 2013 và kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2014 tỉnh Cà Mau. Thiều Lư, Trình Trung Phi, Nguyễn Công Thành, Đỗ Văn Hoàng, Ngô Minh Lý, Trần Quốc Binh, Nguyễn Trọng Nghĩa, 2010. Nghiên cứu một số giải pháp phát triển bền vững các mô hình nuôi tôm trên vùng chuyển đổi tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. 103 trang Tài liệu tiếng Anh Allan, G.L., Maguire, G. B., 1991. Lethal levels of low dissolved oxygen and effects of short-term oxygen stress on subsequent growth of juvenile (Penaeus monodon). Aquaculture 94(1), 27-37. Chen, H.Y., & Chen, Y.L., 1999. Temperature preferendum of postlarval black tiger shrimp (Penaeus monodon). Marine and freshwater research 50(1), 67-70. Clayton, H., 2003. Rice–shrimp farming in the Mekong Delta: biophysical and socioeconomic issues (No. 113920). Australian Centre for International Agricultural Research. Deering, M.J., Fielder, D.R., & Hewitt, D.R., 1995. Effects of temperature on growth and protein assimilation in juvenile leader prawns Penaeus monodon. Journal of the World Aquaculture Society 26(4), 465-468. Rosas, C., Sánchez, A., Díaz-Iglesia, E., Brito, R., Martinez, E., & Soto, L.A., 1997. Critical dissolved oxygen level to and Penaeus schmitti postlarvae (PL10–18) exposed to salinity changes. Aquaculture 152 (1), 259-272. Truong Hoang Minh, Christopher J. Jackson, Tran Thi Tuyet Hoa, Le Boa Ngoc, Nigel Preston and Nguyen Thanh Phuong. 2003. Growth and survival of Penaeus monodon in relation to the physical condition in the rice-shrimp culture system in the Mekong Delta. In Rice–shrimp farming in the Mekong Delta: biophysical and socioeconomic issuesIn Rice–shrimp farming in the Mekong Delta: biophysical and socioeconomic issues. Editted by Preston, K and Clayton, H. 2003. Technical report ACIAR Project Wyban, J., Walsh, W.A., & Godin, D.M., 1995. Temperature effects on growth, feeding rate and feed conversion of the Pacific white shrimp (Penaeus vannamei). Aquaculture 138(1–4), 267- 279. 74 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 imPRoVe PRodUcTiViTY and sUsTainabiliTY oF shRimP FaRming in Rice-shRimP sYsTem in hoa mY, cai nUoc, camaU Le Huu Hiep1*, Nguyen Van Hao2, Nguyen Cong Thanh1, Luu Duc Dien3, Truong Minh Lel1, Hoang Thi Thuy Tien2 ABSTRACT The rice- shrimp culture system accounts for a relatively large area in Ca Mau. This model is char- acterized by low stocking density, large area, low level of culture technique. Although the risk is low due to reduced intensification, there are still a number of problems encountered such as dis- ease, maintain water level and low production. Therefore, rice-shrimp culture system has become increasingly difficult to manage, leading to impacts on farmer’s livelihoods. This study aimed to evaluate the technical measures such as reinforce embankment, redesign fields, nursery pond, high quality stocking, transfer shrimp culture technques. The results show that technical measures have a positive contribution to the production of shrimp in the trial model when compared with the control households. Keywords: Rice-shrimp, trial model, survival rate, design, nursery pond. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 29/5/2015 Ngày thông qua phản biện: 10/6/2015 Ngày duyệt đăng: 15/6/2015 1 Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research,Research Institute for Aquaculture No 2. * Email:lehuuhiep2@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No 2. 3 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2.
File đính kèm:
- nang_cao_nang_suat_va_tinh_ben_vung_cua_tom_nuoi_trong_he_th.pdf