Nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành bằng thủy phân và lên men kết hợp enzyme cellulase và vi khuẩn Bacillus subtilis B3
TÓM TẮT
Nâng cao giá trị dinh dưỡng phụ phẩm từ ngành công nghiệp chế biến sữa đậu nành bằng công nghệ
sinh học để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi đang được chú trọng mạnh. Việc nghiên cứu tạo ra sản
phẩm nâng cao dinh dưỡng thành dạng dễ hấp thu còn nhiều hạn chế, đặc biệt đối với nguyên liệu
làm thức ăn cho thủy sản.
Thí nghiệm tiến hành thủy phân bã sữa đậu nành bằng enzyme cellulase đồng thời lên men bán rắn
bã sữa đậu nành khi bổ sung vi khuẩn Bacillus subtilis B3. Tiến hành khảo sát các điều kiện lên
men tối ưu trong thời gian từ 24 giờ đến 96 giờ, lấy mẫu và đánh giá mật độ vi khuẩn. Đánh giá chất
lượng sản phẩm thông qua các chỉ tiêu thành phần hóa học, mức độ thủy phân protein bằng phương
pháp Lowry và protein kháng dinh dưỡng bằng phương pháp điện di và mức độ phá vỡ vách tế bào
cellulose của bã sữa dưới kính hiển vi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, điều kiện tối ưu cho việc thủy phân và lên men bán rắn bã sữa đậu
nành với enzyme cellulase và vi khuẩn Bacillus subtilis B3 được xác định ở nhiệt độ 37oC và pH là
6,5 và vi khuẩn đạt mật độ cao sau 48 giờ. Thành phần dinh dưỡng bã sữa đậu nành lên men được
cải thiện với hàm lượng xơ giảm 12,54%, hàm lượng protein tan tăng và protein kháng dinh dưỡng
đã được thủy phân hầu như hoàn toàn (< 20="" kda).="" do="" đó,="" nguyên="" liệu="" sau="" khi="" lên="" men="" bán="" rắn="">
vi khuẩn Bacillus subtilis B3 kết hợp với thủy phân bằng enzyme cellulase có giá trị dinh dưỡng
cao, có thể sử dụng để làm nguyên liệu cho thức ăn thủy sản
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao giá trị dinh dưỡng bã sữa đậu nành bằng thủy phân và lên men kết hợp enzyme cellulase và vi khuẩn Bacillus subtilis B3
mật độ vi khuẩn thấp hơn so với 37oC và 40 oC trong 48 giờ đầu tiên. Từ 72 giờ đến 96 giờ, mật độ vi khuẩn ở 40 oC và 37 oC cho thấy giảm rõ rệt, mặc dù tại thời điểm 72 giờ vi khuẩn ở nhiệt độ 30 oC tăng mạnh nhưng vẫn tương đương so với tại 37 oC và tại 96 giờ cho thấy mật độ thấp nhất trong các nhiệt độ khảo sát. 3.2.3. Ảnh hưởng của giá trị pH Hình 6. Mật độ B. subtilis B3 khi lên men bán rắn kết hợp với thủy phân bằng cellulase ở các pH khác nhau. Từ Hình 6 cho thấy tại pH 6,5 ở 48 giờ đầu tiên khi lên men bán rắn kết hợp thủy phân mật độ B. subtilis B3 đạt mức cao (24 giờ, Log =6,97 CFU/g; 48 giờ Log =8,84 CFU/g) so với pH 6 và 7. Ở thời gian 72 giờ cho thấy ở nghiệm thức pH 6 có mật độ B. subtilis B3 cao hơn pH 6,5 và pH 7, tuy nhiên, sau 96 giờ lên men cho thấy mật độ B. subtilis B3 ở các nghiệm thức tương đương nhau khoảng Log= 6,3 CFU/g. 3.3. Đánh giá chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được tiến hành phân tích và đánh giá. Bảng 2. Thành phần dinh dưỡng nguyên liệu lên men bán rắn Ẩm Protein thô (%VCK*) Lipid (%VCK) Xơ (%VCK) Tro (%VCK) Bã sữa đậu nành 88,79 16,68±0,62 9,44±1,06 25,76±0,17 3,09±0,02 Bã sữa đậu nành + B. subtilis B3 + cellulase 9,66 16,23 5,39±0,20 22,53 4,93±0,02 (*) VCK: Vật chất khô Kết quả từ việc lên men bã sữa đậu nành bằng phương pháp bán rắn được đánh giá ở Bảng (2). Ở thí nghiệm lên men bán rắn B. subtilis B3 kết hợp thủy phân cellulase cho thấy hàm lượng protein không tăng so với bã sữa đậu nành. Trong khi đó, hàm lượng xơ và lipid giảm rõ rệt so với nguyên liệu BSĐN ban đầu (12,54% và 42,90%), tuy nhiên hàm lượng tro ở thí nghiệm này cho thấy gia tăng sau khi lên men. 69TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 3. Bảng kết quả so sánh hàm lượng protein tan, acid amin tự do và mật độ vi khuẩn của bã sữa khi lên men bán rắn Nguyên liệu Protein tan (µg/g) Acid amin tự do (µg/g) Mật độ B. subtilis B3 sau khi sấy (CFU/g) Bã sữa đậu nành 2,83 ± 0,34 0,30 ± 0,04 0 Bã sữa đậu nành + B. subtilis B3 + cellulase 4,51 ± 0,08 0,93 ± 0,03 1,43 x 108 Các chỉ số protein tan, acid amin tự do và mật độ vi khuẩn B. subtilis B3 ở Bảng 3, cho thấy khi lên men kết hợp cellulase thủy phân cho thấy hàm lượng protein tan tăng so với trước khi lên men 1,68 (µg/g), hàm lượng acid amin tự do ở lên men kết hợp tăng 0,63 (µg/g) so với trước lên men. Đồng thời, mật độ B. subtilis B3 của sản phẩm sau khi sấy khô đạt mật độ trên 108 (CFU/g), cho thấy đây là một nguyên liệu có dinh dưỡng đầy đủ cho vi khuẩn phát triển, hơn nữa có thể xem là một dạng probiotic. Hình 7. Tế bào của bã sữa trước khi xử lý nhiệt Hình 8. Tế bào của bã sữa sau khi xử lý nhiệt Hình 9. Tế bào của sau khi lên men bằng vi khuẩn B. subtilis B3 + cellulase tại pH 6,5 nhiệt độ 37oC, độ dày 3,0 cm Các hình ảnh mô tế bào bã sữa đậu nành trước khi xử lý nhiệt, sau khi xử lý nhiệt và sau khi lên men của đề tài khi so sánh với nguyên liệu của bã sữa xử lý nhiệt (Hình 8) và nguyên liệu sau khi thủy phân bằng B. subtilis B3 và enzyme cellulase cho thấy tương đương với kết quả của nhóm nghiên cứu Kasai và ctv., (2004). Từ hình ảnh mô và kết quả điện di (Hình 7, 8, 9 và 10) cho thấy bã sữa đậu nành đã được thủy phân vách thứ cấp gần như hoàn toàn và dinh dưỡng bên trong vách tế bào của bã sữa như protein hầu hết được thủy phân và có phân tử lượng <20 KDa. Vách thứ cấp của bã sữa đậu nành có chứa protein, pectin và hemicelluloses, 70 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II trong nghiên cứu của tác giả (Kasai và ctv., 2004) đã sử dụng enzyme protease thương mại đã không phá vỡ được vách tế bào này, tuy vi khuẩn Bacillus subtilis có khả năng tiết ra enzyme pectinase trên cơ chất đậu nành và thủy phân vách tế bào thứ cấp. Tác giả (Salim và ctv., 2017) xác định hoạt tính của Bacillus subtilis trên cơ chất là phụ phẩm nông nghiệp, đặc biệt trên phụ phẩm khô đậu nành cho thấy sản sinh ra pectinase với hoạt tính mạnh. Một kết quả nghiên cứu tương tự cũng cho thấy gia tăng hàm lượng peptide trong dung dịch (Zhu và ctv., 2008) khi sử dụng vi khuẩn Bacillus subtilis lên men bã sữa đậu nành. Ngoài ra, hai thành phần chính của ĐC1: Nguyên liệu bã sữa ban đầu BA1: Bã sữa lên men vi khuẩn B. subtilis B3 lần 1 BE2: Bã sữa lên men B. subtilis B3 + cellulase M: Marker protein chuẩn BA2: Bã sữa lên men vi khuẩn B. subtilis B3 lần 2 BE4: Bã sữa lên men Bacillus + cellulase BE5: Bã sữa lên men Bacillus + cellulase ĐC2: Khô dầu đậu nành Hình 10. Kích thước protein của sản phẩm bã sữa sau khi lên men B. subtilis B3 và lên men kết hợp B. subtilis B3 +cellulase Như vậy, việc lên men kết hợp đã giúp loại bỏ kháng nguyên protein đậu nành và giảm hàm lượng xơ. Protein của bã sữa đậu nành được phân cắt thành những đoạn nhỏ hơn (<20 kDa), điều này có thể do khả năng tiết ra enzyme cellulase và protease của vi khuẩn khi lên men (Teng và ctv., 2012; Shiu và ctv., 2015). Kết quả này phù hợp với đặc tính sinh enzyme ngoại bào đã được khảo sát trên chủng vi sinh B. subtilis B3 từ nghiên cứu trước đây bởi nhóm tác giả Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh (2016) và kết quả thủy phân tốt trên nguyên liệu khô đậu nành khi lên men bán rắn (Nguyễn Thành Trung và ctv., 2018). IV. KẾT LUẬN Xác định được điều kiện lên men bán rắn và thủy phân kết hợp trên bã sữa đậu nành tại 370C, pH = 6,5 và hoạt độ enzyme cellulase để sử dụng cho việc thủy phân BSĐN. Nâng cao được giá trị dinh dưỡng của bã sữa đậu nành, sau khi lên men giảm 12,54% hàm lượng xơ so với BSĐN ban đầu, loại bỏ kháng nguyên protein, mật độ vi khuẩn B. subtilis B3 đạt khoảng 108 (CFU/g) sau khi sấy khô. Nguyên liệu sau khi lên men bán rắn bằng chủng B. subtilis B3 kết hợp với thủy phân bằng enzyme cellulase có thể sử dụng để làm nguyên liệu cho thức ăn thủy sản. protein trong hạt đậu nành là β-conglycinins (7S globulins) và glycinins (11S globulins) là các hợp chất kháng nguyên protein như β- conglycinin; α, α’-conglycinin, glycinin và a,b- subunit, chiếm khoảng 60% đến 80% protein hạt đậu nành (Utsumi và ctv., 1997), việc thủy phân protein này cho thấy loại bỏ được kháng nguyên protein. Ở các vạch BE2, BE4 và BE5 (lên men kết hợp giữa vi khuẩn B. subtilis B3 + cellulase). Ở vạch ĐC 1 không xuất hiện các phân tử kháng dinh dưỡng là do protein dạng tan đã được trích thành sữa chỉ còn protein trong tế bào, trong khi đó ở vạch ĐC 2 (khô đậu nành) vẫn chứa protein tan vì vậy các vạch kháng dinh dưỡng xuất hiện trên bảng điện di (Hình 10). 71TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Bùi Thị Thùy Dương, 2019. Expanding the production capacity for sugar and soya bean milk, new hope on biomasspower, Soya milk consumption in Vietnam, Phu Hung Securities, pp. 9 pages. Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2016. Đề tài: Hoàn thiện và sản xuất thử nghiệm chế phẩm vi sinh BioShrimp- RIA2 phòng bệnh do Vibrio spp. gây ra trên tôm nuôi. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2- Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Nguyện, Trần Văn Khanh, Lê Hoàng, Đinh Thị Mến, Nguyễn Thị Thu Hiền, Trần Thị Hồng Ngọc, Lê Thị Ngọc Bích, Võ Thị Cẩm Tiên và Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh, 2018. Tối ưu hoá điều kiện lên men khô đậu nành và đánh giá hình thái học mô ruột khi sử dụng để thay thế bột cá ở thức ăn tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei). Journal of Mekong fisheries. 11, 43-58. Tài liệu tiếng Anh BS EN 15784, 2009. Animal feeding stuffs. Isolation and enumeration of presumptive. Chakrabarti., I., Gani., M.A., Chaki., K.K., Sur., R. và Misra, K.K., 1995. Digestive enzymes in 11 freshwater teleost fish species in relation to food habit and niche segregation. Comparative Biochemistry and Physiology Part A: Physiology. 112, 167-177. Feng, J., Liu, X., Xu, Z.R., Lu, Y.P. và Liu, Y.Y., 2007. The effect of Aspergillus oryzae fermented soybean meal on growth performance, digestibility of dietary components and activities of intestinal enzymes in weaned piglets. Animal Feed Science and Technology. 134, 295-303. Forster, I.P., Dominy, W.G., Conquest, L.D., Ju, Z.Y. và Grey, M., 2010. Use of agriculture byproducts in diets for pacific white shrimp Litopenaeus vannamei. Avances en Nutrición Acuícola X - Memorias del Décimo Simposio Internacional de Nutrición Acuícola, 8-10 de Noviembre, San Nicolás de los Garza, N. L., México. ISBN 978-607-433-546-0. Universidad Autónoma de Nuevo León, Monterrey, México., 366-392. Heikkinen, J., Vielma, J., Kemiläinen, O., Tiirola, M., Eskelinen, P., Kiuru, T., Navia-Paldanius, D. và von Wright, A., 2006. Effects of soybean meal based diet on growth performance, gut histopathology and intestinal microbiota of juvenile rainbow trout (Oncorhynchus mykiss). Aquaculture. 261, 259-268. Hu, Y., Ge, C., Yuan, W., Zhu, R., Zhang, W., Du, L. và Xue, J., 2010. Characterization of fermented black soybean natto inoculated with Bacillus natto during fermentation. J Sci Food Agric. 90, 1194-1202. Kasai, N., Murata, A., Inui, H., Sakamoto, T. và Kahn, R.I., 2004. Enzymatic High Digestion of Soybean Milk Residue (Okara). J. Agric. Food Chem. 52, 5709-5716. Khare, S., Jha, K. và Gandhi, A., 1995. Citric Acid Production from Okara (soy-residue) by Solid- state Fermentation. Bioresource Technology. 54 323-325. Mateos-Aparicio, I., Mateos-Peinado, C., Jiménez- Escrig, A. và Rupérez, P., 2010. Multifunctional antioxidant activity of polysaccharide fractions from the soybean byproduct okara. Carbohydrate polymers. 82, 245-250. Matsumoto, T., Sugiura, Y., Kondo, A. và Fukuda, H., 2000. Efficient production of protopectinases by Bacillus subtilis using medium based on soybean flour. Biochemical Engineering Journal 6, 81–86. Matsunari, H., Iwashita, Y., Suzuki, N., Saito, T., Akimoto, A., Okamatsu, K., Sugita, T. và Yamamoto, T., 2010. Influence of fermented soybean meal-based diet on the biliary bile status and intestinal and liver morphology of rainbow trout Oncorhynchus mykiss. Aquaculture Sci. 58, 243-252. Miller, G.L., 1959. Use of Dinitrosalicylic Acid Reagent for Determination of Reducing Sugar. Anal. Chem. 31, 426-428. Nguyen Thanh Trung, Matsumoto, Y. và Masumoto, T., 2016. Effect of soybean meal diet on color and morphology of distal intestine of juvenile yellowtail (Seriola quinqueradiata). International Fisheries Symposium - Can Tho University publishing house. Oh, S.-M., Kim, C.-S. và Lee, S.-P., 2006. Characterization of the functional properties of soy milk cake fermented by Bacillus sp. Food science and biotechnology. 15, 704-709. Salim, A. A., Grbavčić, S., Šekuljica, N., Stefanović, A., Jakovetić Tanasković, S., Luković, N., Knežević-Jugović, Z., (2017). Production of 72 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II enzymes by a newly isolated Bacillus sp. TMF- 1 in solid state fermentation on agricultural by-products: The evaluation of substrate pretreatment methods, Bioresource Technology. 228. 193-200. Sanjukta, S. và Rai, A.K., 2016. Production of bioactive peptides during soybean fermentation and their potential health benefits. Trends in Food Science & Technology. 50, 1-10. Shiu, Y.-L., Wong, S.-L., Guei, W.-C., Shin, Y.-C. và Liu, C.-H., 2015. Increase in the plant protein ratio in the diet of white shrimp, Litopenaeus vannamei (Boone), using Bacillus subtilis E20- fermented soybean meal as a replacement. Aquaculture Research. 46, 382-394. Singh, A., Meena, M., Kumar, D., Dubey, A.K. và Hassan, M.I., 2015. Structural and functional analysis of various globulin proteins from soy seed. Crit Rev Food Sci Nutr. 55, 1491-1502. Teng, D., Gao, M., Yang, Y., Liu, B., Tian, Z. và Wang, J., 2012. Bio-modification of soybean meal with Bacillus subtilis or Aspergillus oryzae. Biocatalysis and Agricultural Biotechnology. 1, 32-38. Utsumi, S., Matsumura, Y. và Mori, T., 1997. Structure-Function Relationships of Soy Proteins. in: Damodaran, S. và Paraf, A. (Eds.), Food Proteins and Their Applications. Marcel Dekker, Inc., New York, US., pp. 257–291. Yokota, T., Hattori, T., Ohishi, H., Ohami, H. và Watanabe, K., 1996. Repression of acute gastric mucosal lesions by antioxidant-containing fraction from fermented products of okara (bean- curd residue). Journal of Nutritional Science and Vitaminology,. 42, 167-172. Zhu, Y.P., Fan, J.F., Cheng, Y.Q. và Li, L.T., 2008. Improvement of the antioxidant activity of Chinese traditional fermented okara (Meitauza) using Bacillus subtilis B2. Food Control. 19, 654-661. 73TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 14 - THÁNG 10/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II IMPROVING NUTRITIONAL VALUE OF SOYBEAN MILK RESIDUE USING Bacillus subtilis B3 AND CELLULASE Tran Van Khanh1*, Nguyen Van Nguyen1, Le Hoang1, Nguyen Xuan Hai1, Nguyen Thanh Trung1, Tran Thi Le Trinh1, Nguyen Thi Ngoc Tinh1 ABSTRACT The aim of this study is to improve nutritional value of soybean milk residues using Bacillus subtilis B3 strain and cellulase enzyme. Soybean milk residues were hydrolyzed with cellulase enzyme and were solid-state fermented with Bacillus subtilis B3 strain. The optimal conditions for fermentation were investigated from 24 hours to 96 hours, while bacterial density was determined every 24 hours. At the same time, cell wall structure of soybean milk residue was monitored under light microscope. The quality of the product was evaluated based on proximate composition, hydrolysis degree by Lowry method and allergen protein by SDS-polyacrylamide gel electrophoresis. The results showed that the optimal conditions for solid-state fermentation of soybean milk residues by Bacillus subtilis B3 were found at 370C and pH 6.5. Bacillus subtilis B3 reached maximum density after 48 hours. The fermented soybean residues also had a reduced fiber content by 12.54%, high soluble protein and allergen protein was almost hydrolysed. In summary, the soybean residue product after solid-state fermentation with Bacillus subtilis B3 and hydrolysis by cellulase enzyme has a high nutritional value and can be used as an ingredient for aquafeed. Keywords: Bacilus subtilis B3, soybean milk residue, solid-state fermentaion. Người phản biện: TS. La Xuân Thảo Ngày nhận bài: 27/8/2019 Ngày thông qua phản biện: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 31/10/2019 Người phản biện: PGS.TS. Lê Thanh Hùng Ngày nhận bài: 27/8/2019 Ngày thông qua phản biện: 09/10/2019 Ngày duyệt đăng: 31/10/2019 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: tvkhanh76@yahoo.com
File đính kèm:
- nang_cao_gia_tri_dinh_duong_ba_sua_dau_nanh_bang_thuy_phan_v.pdf