Mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường: Giải pháp cho phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người vùng lòng hồ Hòa Bình
Cộng đồng người Mường ở khu vực lòng hồ Hòa Bình đã tạo nên một nền văn hóa có bản
sắc rõ nét với các đặc trưng cơ bản của nếp sống văn hóa. Trong những năm gần đây, loại hình bảo
tàng sinh thái đang hình thành và phát triển mạnh gắn giữa bảo tồn và phát triển. Bài báo đã sử dụng
phương pháp điền dã dân tộc học và điều tra xã hội học để xây dựng mô hình Bảo tàng sinh thái cộng
đồng Mường cho khu vực hồ thủy điện Hòa Bình. Đây là một mô hình bảo tàng mới về quan niệm, hình
thức và nội dung tổ chức trưng bày cũng như các phương thức hoạt động. Mô hình bảo tàng được
thiết kế đặt tại bản Ngòi, xã Ngòi Hoa, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình với đầy đủ các hợp phần: tổ
chức quản lý, sản phẩm du lịch và tổ chức triển khai mô hình. Bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường
sẽ tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, vừa hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng vừa góp phần bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Mường ở khu vực hồ Hòa Bình
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường: Giải pháp cho phát triển du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn và phát huy văn hóa tộc người vùng lòng hồ Hòa Bình
2,5 7 Tín ngưỡng, tôn giáo (thờ cúng, mo Mường) 72,5 22,5 5,0 0,0 8 Lễ hội truyền thống 47,5 52,5 0,0 0,0 9 Nhạc cụ, điệu múa, dân ca truyền thống 5,0 17,5 60,0 17,5 10 Ngôn ngữ tộc người 67,5 32,5 0,0 0,0 Nguồn: Kết quả điều tra xã hội học năm 2019 Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 34 Phần lớn người dân địa phương (80% số người được hỏi) cho rằng hiện nay các giá trị văn hóa tộc người mới được khai thác một phần nhỏ trong hoạt động du lịch. Điều này là sự thiệt thòi cho cả khách du lịch lẫn người dân bản địa. Đối với du khách là mất đi cơ hội tìm hiểu đời sống, văn hoá một cách sống động. Đối với cư dân địa phương là hạn chế khả năng làm phong phú sản phẩm du lịch. Do các giá trị văn hóa chưa được khai thác nhiều cho du lịch nên một tỉ lệ lớn người được phỏng vấn (42,5%) cho rằng du lịch chưa hỗ trợ nhiều cho bảo tồn. 3.2. Mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường Theo Phạm Trung Lương [4], mô hình phát triển du lịch gắn với bảo tồn phải gồm 3 hợp phần: Hợp phần về tổ chức quản lý, hợp phần về sản phẩm du lịch và hợp phần về tổ chức triển khai. Khác với mô hình phát triển du lịch thông thường, mô hình phát triển du lịch gắn với bảo tồn sẽ hướng tới các loại hình du lịch thân thiện với môi trường, phát huy văn hóa bản địa, tạo sinh kế cho cộng đồng địa phương với định hướng những sản phẩm du lịch hỗ trợ cho mục tiêu bảo tồn. Mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường cũng có thể coi là một mô hình phát triển du lịch gắn với bảo tồn. Mô hình tổng thể của bảo tàng được thể hiện qua những hợp phần như sau: 3.2.1. Hợp phần quản lý của bảo tàng Các chủ thể tham gia vào hoạt động của bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường gồm cộng đồng chủ thể và cộng đồng khách thể. a. Cộng đồng chủ thể Nhóm chủ thể văn hóa là nhóm tạo ra các sản phẩm văn hóa để cung cấp cho khách du lịch. Khi nào cộng đồng chủ thể văn hóa tự nguyện, tích cực tham gia vào các hoạt động bảo tàng thì loại hình bảo tàng sinh thái mới có sức sống, mới thu hút được khách du lịch. Cộng đồng chủ thể trong mô hình bảo tàng sinh thái ở bản Ngòi là người dân trong bản. Họ sẽ tham gia vào mô hình trước hết thông qua hoạt động sống thường ngày, các phong tục tập quán và tương tác với môi trường sống. Đây là cách “trưng bày” chân thực nhất các giá trị văn hóa của cư dân địa phương trong bảo tàng sinh thái. Ngoài ra người dân địa phương còn tham gia vào bảo tàng theo các tổ kỹ thuật du lịch như: tổ ẩm thực, tổ văn nghệ, tổ lưu trú homestay, tổ làm hàng lưu niệm, tổ hướng dẫn - thuyết minh và tổ vận chuyển. Những người tham gia vào các tổ kỹ thuật cần được đào tạo về các nghiệp vụ du lịch. b. Cộng đồng khách thể Cộng đồng khách thể gồm nhiều nhóm hợp thành. Thứ nhất là các tổ chức Nhà nước và các nhà chuyên môn như Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hòa Bình, Phòng Văn hóa huyện Tân Lạc, các chuyên gia về bảo tàng và du lịch. Các tổ chức Nhà nước hỗ trợ doanh nghiệp và cộng đồng trong hoạch định, quản lý và định hướng cho hoạt động bảo tàng với mục đích giới thiệu, quảng bá văn hóa và phát triển du lịch. Nhóm các nhà chuyên môn hỗ trợ doanh nghiệp và cộng đồng về nghiên cứu khoa học và hướng dẫn các nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là chuyên môn về bảo tồn và vận hành bảo tàng. Thứ hai là doanh nghiệp (như Công ty Cổ phần du lịch Hòa Bình), đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển mô hình thông qua hoạt động đầu tư vốn. Thứ ba, là nhóm khách du lịch tham quan văn hóa sinh thái của dự án. Nhóm này cần phối hợp hỗ trợ cộng đồng, hỗ trợ doanh nghiệp trên cơ sở tuân thủ những quy định của bảo tàng như: mua vé, trả phí dịch vụ và hỗ trợ vật chất cho chủ thể văn hóa theo các hình thức khác nhau. Ngoài ra, các tổ chức quốc tế, trong nhiều trường hợp cũng có thể hỗ trợ chuyên môn và hỗ trợ tài chính cho các chủ thể văn hóa. 3.2.2. Hợp phần sản phẩm du lịch của bảo tàng Hoàng Thị Thu Hương, Nguyễn Duy Thiệu - Mô hình bảo tàng sinh thái 35 a. Sản phẩm sinh thái tự nhiên Khi đến tham quan một bảo tàng sinh thái, trước hết du khách được tham quan và khám phá hệ sinh thái tự nhiên - bối cảnh thiên nhiên mà cộng đồng địa phương đã hoạt động trong đó để sinh tồn, tạo tác và tích lũy được các di sản hình thành bản sắc riêng của mình. Hình 5. Khung cảnh khi bước vào động Hoa Tiên, bản Ngòi Hình 6. Mặt nước trong xanh ở Ao Tiên, bản Ngòi Cụ thể ở khu vực hồ Hòa Bình là hệ sinh thái trong vùng núi đá vôi với các hang động (động Hoa Tiên, hang Quai Ấm), hố sụt karst (Ao Tiên)... Một số nguồn lợi tự nhiên và các hoạt động của con người khai thác và sử dụng chúng đều là các đối tượng có thể “trưng bày”, đồng thời là các sản phẩm để phục vụ nhu cầu tham quan và trải nghiệm của du khách như hoạt động kéo vó tôm, nuôi cá lồng trên lòng hồ (Hình 5, 6). b. Sản phẩm sinh thái nhân văn, các không gian trưng bày và trải nghiệm - Sinh thái và sinh kế Các hoạt động mưu sinh thường nhật của cư dân trong hệ sinh thái cung cấp cho du khách những nét văn hóa đặc thù. Để hoạt động của bảo tàng tập trung và có hiệu quả, một số không gian có thể được sắp xếp hoạt động theo nhóm lộ trình thăm quan. Ví dụ có thể lựa chọn xây dựng các điểm sản xuất tập trung để trồng cây lấy hạt, lấy củ, trồng rau màu, chăn nuôi gia súc, nuôi cá (Hình 7), nuôi ong vừa theo cách truyền thống vừa áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để các lĩnh vực sản xuất thu được năng suất tốt. Ngoài việc thăm quan các hoạt động mưu sinh của người dân địa phương, du khách có nhu cầu sẽ được trải nghiệm cùng ăn cùng ở cùng làm với cộng đồng địa phương. Hình 7. Khu vực nuôi trồng thủy sản Hình 8. Nhà sàn truyền thống của người Mường Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 36 Các hộ gia đình làm nghề thủ công truyền thống như dệt, nhuộm, mây tre đan, làm kim hoàn, chạm khắc, tạo tác các nhạc cụ sẽ được tổ chức sắp xếp theo nhóm thành những điểm hoạt động tập trung thuận lợi cho lộ trình thăm quan của du khách. Các nghề thủ công không chỉ có ý nghĩa đối với việc giới thiệu bản sắc văn hóa của người Mường mà còn tạo ra các sản phẩm để bán cho khách du lịch, tăng thêm nguồn thu. - Các không gian trưng bày tập trung Trước tiên, cụm kiến trúc nhà truyền thống mà các hộ gia đình đang sử dụng ở bản Ngòi sẽ được bảo tồn nguyên vẹn cả về mặt kỹ thuật kiến trúc, về cách bố trí sắp xếp mặt bằng sinh hoạt trong các ngôi nhà theo tập quán xã hội của người Mường (Hình 8). Có thể cải tạo vừa đảm bảo cho các hộ gia đình sinh hoạt vừa là các điểm lưu trú (homestay). Để phục vụ cho du lịch cần tái phục dựng 3 loại nhà ở truyền thống tương ứng với 3 tầng lớp trong xã hội Mường truyền thống: Nhà Lang, Nhà Ậu, Nhà dân (Hình 9). Hình 9. Đề xuất các không gian chính của bảo tàng sinh thái Mường ở bản Ngòi Về mặt “bảo tàng”, các công trình này phải thỏa mãn nhu cầu tham quan “tính đích thực” văn hóa, nên tốt nhất là sưu tầm các ngôi nhà truyền thống còn sót lại trong cộng đồng, chuyển về khu trưng bày tái phục dựng nhưng phải đảm bảo tính bản địa của văn hóa cho các ngôi nhà. Các loại nhà ở truyền thống của xã hội Mường có thể tạo sản phẩm cho du khách trải nghiệm lối sống của nhà lang từ ăn, mặc và các sinh hoạt giải trí. c. Không gian “cộng đồng” Không gian này gồm 2 bộ phận chính: Một là, công trình kiến trúc theo kiểu dáng truyền thống đủ điều kiện để trưng bày giới thiệu những đặc điểm chung nhất về người Mường. Các số liệu, kiến thức chung nhất sẽ được đồ họa hóa thành các “dạng hiện vật” như bản đồ, sơ đồ, biểu bảng và các hiện vật đích thực khác như trang phục, chiêng sẽ được trưng bày để giới thiệu cho du khách bản sắc văn hóa chung của người Mường và truyền thống lịch sử của địa phương. Hai là, kiến tạo không gian để trình diễn văn hóa truyền thống phục vụ du khách. Công trình Hoàng Thị Thu Hương, Nguyễn Duy Thiệu - Mô hình bảo tàng sinh thái 37 kiến trúc phải tính đến các không gian trình diễn trong nhà (sân khấu) và trình diễn ngoài trời. Nội dung trình diễn bao gồm văn nghệ dân gian truyền thống (ca, múa, nhạc), đồ chơi và trò chơi dân gian. Cần lựa chọn các giá trị văn hoá đặc trưng của người Mường để xây dựng các sản phẩm du lịch mang tính trình diễn cao như Mo Mường, lễ hội Xên Mường, lễ hội Khuống Mùa hay lễ hội xuống đồng. Bản Ngòi là nơi đầu tiên thí điểm sân khấu hoá Mo Mường biểu diễn phục vụ du khách, như Ông Mo trong trang phục truyền thống cùng các đạo cụ, mâm lễ thực hiện các nghi lễ thỉnh các vị thần linh cầu xin sức khoẻ và bình an cho du khách (Hình 10), tiết mục Cồng Chiêng chào đón du khách (Hình 11). Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức điệu múa bông, mô phỏng quá trình lao động của các cô gái trong bản với nghề truyền thống trồng bông dệt vải khi xưa, diễn tả mơ ước của con người vươn tới một cuộc sống giàu sang phú quí, thóc gạo đầy nhà. Cuối cùng, điệu múa sạp Mường tạo cơ hội giao lưu giữa người dân và du khách trong không khí vui vẻ, thân thiện. Hình 10. Các nghi lễ trong Mo Mường Hình 11: Người dân Bản Ngòi đón khách bằng màn biểu diễn cồng chiêng Hình 12. Các bước xây dựng bảo tàng cộng đồng Mường tại bản Ngòi Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Tháng 3/2021 38 3.2.3. Hợp phần tổ chức triển khai mô hình bảo tàng Không gian trưng bày của bảo tàng sinh thái cộng đồng nằm ngay trong hệ sinh thái (không gian trưng bày khép kín chiếm một tỷ lệ rất nhỏ). Nguyên liệu để trưng bày (tri thức dân gian, các hoạt động sinh sống hàng ngày) mang tính phi vật thể rất cao. Vai trò của cộng đồng - những chủ thể văn hóa có ý nghĩa quyết định. Để xây dựng được bảo tàng sinh thái cộng đồng cần thực hiện theo 3 giai đoạn (xác định, chuẩn bị và thực hiện) với 6 bước và 11 công việc cụ thể như hình 12 [10]. 3.3. Giải pháp thực hiện Để mô hình du lịch sinh thái cộng đồng Mường thành hiện thực, cần cải thiện các yếu tố về cơ sở hạ tầng và chất lượng lao động, đa dạng hóa các sản phẩm và quảng bá du lịch. Trước tiên tỉnh Hòa Bình và huyện Tân Lạc cần ưu tiên ngân sách hỗ trợ bản Ngòi nâng cấp hệ thống đường sá, điện, nước và thông tin liên lạc. Thực hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án của các ngành khác có liên quan với phát triển du lịch (như nông thôn mới, trồng rừng, khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống) để giảm bớt những khó khăn về vốn. Đồng thời thực hiện xã hội hóa công tác đầu tư bảo tồn, tôn tạo các giá trị tài nguyên và môi trường du lịch. Để thu hút đầu tư của khu vực tư nhân, cần có chính sách ưu tiên như miễn giảm thuế; cho chậm tiền thuế có thời hạn; giảm tiền thuế đất; cho vay với lãi suất ưu đãi Nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương thông qua tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn về các kỹ năng xây dựng bảo tàng và phát triển du lịch cộng đồng; xây dựng các qui tắc bảo tồn và phát triển du lịch cộng đồng cho bản Ngòi; Biên soạn tài liệu đào tạo dành cho đối tượng là người dân tộc thiểu số. Ngoài ra, cần xây dựng các chương trình quảng bá xúc tiến nhằm quảng bá rộng rãi về tiềm năng và những giá trị độc đáo của khu du lịch hồ Hòa Bình nói chung và bản Ngòi nói riêng thông qua tổ chức các sự kiện, các đoàn farmtrip đến các nhà đầu tư, các doanh nghiệp du lịch... đầu tư các ấn phẩm du lịch, xây dựng trang thông tin quảng bá. 4. Kết luận Bản Ngòi là một bản dân tộc Mường nằm ven hồ Hòa Bình có nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch cộng đồng. Du lịch đã tạo thêm một nguồn sinh kế mới cho người dân địa phương. Tuy nhiên việc phát triển du lịch ở đây còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về cơ sở hạ tầng và năng lực địa phương, sản phẩm du lịch đơn điệu. Đặc biệt hiện còn nhiều giá trị văn hóa của người Mường chưa được khai thác cho phát triển du lịch; do đó người dân chưa có ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị này. Nhằm tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, vừa giúp phát triển du lịch đồng thời vừa hỗ trợ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người ở khu vực hồ Hòa Bình, nghiên cứu đã đề xuất mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường. Bảo tàng là trung tâm hội tụ các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Mường, từ đó lan tỏa các giá trị thông qua trải nghiệm thực tế của du khách. Mô hình bảo tàng được thiết kế đặt tại bản Ngòi với đầy đủ các hợp phần: tổ chức quản lý, sản phẩm du lịch và tổ chức triển khai mô hình. Bảo tàng sinh thái cộng đồng Mường sẽ tạo một điểm nhấn cho du khách, đa dạng hóa sản phẩm du lịch của tỉnh Hòa Bình đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Mường. Hoàng Thị Thu Hương, Nguyễn Duy Thiệu - Mô hình bảo tàng sinh thái 39 Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được thực hiện dưới sự hỗ trợ của đề tài: “Nghiên cứu giải pháp khoa học và công nghệ, xây dựng mô hình phục vụ bảo tồn và phát huy các giá trị di sản cho phát triển bền vững du lịch vùng lòng hồ Hòa Bình”, mã số KHCN-TB.24C/13-18, thuộc Chương trình Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc, ĐHQGHN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Công ty cổ phần đầu tư du lịch Hòa Bình (2018), Dự án khu du lịch sinh thái gắn với bảo tồn và phát triển văn hóa cộng đồng dân tộc Mường. 2. Công ty Cổ phần Du lịch Hòa Bình (2016), Đề án phát triển khu du lịch Ngòi Hoa 2016. 3. Cục thống kê tỉnh Hòa Bình (2018), Niên giám thống kê tỉnh Hòa Bình 2018. NXB Thống kê, 2018. 4. Phạm Trung Lương (2019), Đề tài nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển du lịch gắn với bảo tồn đa dạng sinh học tại khu dự trữ sinh quyển Kiên Giang, Mã số: ĐTĐL.XH.XHTN, 12/15. 5. Lê Thị Minh Lý (2004), Bảo tàng sinh thái - Một cách tiếp cận bảo tàng học mới, Tạp chí Di sản Văn hóa, 6, 12-16. 6. Phòng Văn hóa huyện Tân Lạc (2017), Báo cáo du lịch năm 2017. 7. Nguyễn Thu Trang (2016), Bảo tàng hóa di sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Văn hóa học. 8. UBND tỉnh Hòa Bình (2016), Báo cáo tổng hợp Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Hồ Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình đến năm 2030. 9. Daisuke Fukushima and Kazuhiro Ishihara (2004), Practical Research on Educational Dissemination for Volcanic Disaster Prevention: A Case Study Based on the Ecomuseum Concept, Disaster Prevention Research Institute Annuals, vol 47 (C), pp 163-169. 10. Zhen-Hui Liu and Yung-Jaan Lee (2015), A Method for Development of Ecomuseums in Taiwan, Sustainability, vol 7, pp 13249-13269; doi:10.3390/su71013249. Thông tin tác giả: Hoàng Thị Thu Hương - Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN Nguyễn Duy Thiệu - Bảo tàng dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Địa chỉ: 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội ĐT: 0912989783, Email: huonghoangbg@yahoo.com Nhật ký tòa soạn: Ngày nhận bài: 10/02/2021 Biên tập: 03/2021
File đính kèm:
- mo_hinh_bao_tang_sinh_thai_cong_dong_muong_giai_phap_cho_pha.pdf