Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á

Vương triều Nguyễn (1802 - 1945) là một trong những triều đại phong kiến để lại

nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các

quan điểm gần như đối lập nhau, có ý kiến ngợi ca, có ý kiến phủ định những đóng góp của

nhà Nguyễn đối với đất nước. Nhằm cung cấp thêm một cách đánh giá về vương triều này,

tác giả bài viết đã đặt Việt Nam trong bối cảnh lịch sử của khu vực Đông Nam Á và rộng

hơn nữa là châu Á trong thế kỷ XIX, để hiểu rõ hơn lý do mất nước và trách nhiệm của nhà

Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp năm 1884.

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á trang 1

Trang 1

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á trang 2

Trang 2

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á trang 3

Trang 3

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á trang 4

Trang 4

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 1300
Bạn đang xem tài liệu "Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á

Vương triều Nguyễn giai đoạn (1802-1884) trong so sánh với các nước Đông Nam Á
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 VƯƠNG TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN (1802 - 1884) 
 TRONG SO SÁNH VỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á 
 Lê Văn Chiến1 
 1. Khoa Khoa học Xã hội, trường Đại học Hồng Đức 
 TÓM TẮT 
 Vương triều Nguyễn (1802 - 1945) là một trong những triều đại phong kiến để lại 
nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các 
quan điểm gần như đối lập nhau, có ý kiến ngợi ca, có ý kiến phủ định những đóng góp của 
nhà Nguyễn đối với đất nước. Nhằm cung cấp thêm một cách đánh giá về vương triều này, 
tác giả bài viết đã đặt Việt Nam trong bối cảnh lịch sử của khu vực Đông Nam Á và rộng 
hơn nữa là châu Á trong thế kỷ XIX, để hiểu rõ hơn lý do mất nước và trách nhiệm của nhà 
Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp năm 1884. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Tìm hiểu về vương triều Nguyễn giai đoạn (1802 - 1884) không thể không đặt Việt 
Nam (1802 - 1838) và Đại Nam (1838 - 1945) trong bối cảnh lịch sử các quốc gia Đông 
Nam Á lúc bấy giờ, đặc biệt là trong so sánh với các nước láng giềng kể cả Trung Quốc - 
những quốc gia có mối quan hệ lâu đời với chúng ta. 
 Các tài liệu thành văn và hiện vật đã minh chứng rằng, thời cổ đại và trung đại, 
nhiều quốc gia trong khu vực này đã đạt đến trình độ kinh tế, văn hóa rất cao, trong khi 
đó, các quốc gia châu Âu còn phát triển ở trình độ thấp. Tuy nhiên, do những yếu tố chủ 
quan và khách quan khác nhau, nhiều nước châu Âu đã chuyển sang giai đoạn phát triển 
kinh tế tư bản chủ nghĩa từ giai đoạn cuối của chế độ phong kiến. Thực lực về kinh tế và 
quân sự cho phép họ tiến hành nhiều cuộc xâm lược các nước phương Đông, trong đó có 
Việt Nam. Mặc dù vậy, lịch sử đã chứng minh rằng, không phải các nước tư bản mạnh 
hơn thì dễ dàng chinh phục được các nước chậm phát triển hơn. Không ít quốc gia nhỏ 
yếu đã chiến đấu kiên cường làm cho các nước tư bản nhiều phen hao người tốn của. 
Nhưng cuối cùng đa số các nước phương Đông trong đó có khu vực Đông Nam Á đều rơi 
vào tay các nước tư bản Âu -Mỹ. Trách nhiệm làm mất nước, trước hết do chính quyền 
phong kiến các quốc gia đã quá suy yếu, bạc nhược về ý chí chiến đấu, không có khả 
năng tự vệ, đồng thời cũng không dám động viên toàn dân đứng lên chống ngoại xâm. 
Mặt khác, các nước thực dân đã biết khai thác triệt để sự suy yếu của chính quyền phong 
kiến sở tại cũng như sự chia rẽ nội bộ, tranh giành quyền lực, mâu thuẫn sâu sắc giữa 
nhân dân với chính quyền phong kiến 
 Vào buổi bình minh của thời cận đại, thuộc địa của các nước châu Âu ở Đông Nam 
Á chưa nhiều. Bồ Đào Nha là cường quốc thực dân đầu tiên xây dựng vương quốc thuộc 
 53
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
địa của mình ở Đông Nam Á vào đầu thế kỷ XVI (sự kiện Bồ Đào Nha chiếm eo biển 
Malacca vào tháng 7 - 1511). Sự bành trướng của người Bồ ở Đông Nam Á gặp nhiều 
khó khăn vì các quốc gia phong kiến ở đây còn khá mạnh, nhân dân các nước cùng chính 
quyền phong kiến kiên cường đấu tranh; cùng với đó, sự cạnh tranh của các nước Tây Âu 
cũng là một trở ngại cho thế lực của Bồ Đào Nha. Mặc dù đã có sự thỏa thuận “ăn chia” 
giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha nhưng các mâu thuẫn về vấn đề thuộc địa ở khu vực 
Đông Nam Á cùng lúc nổi lên rất gay gắt. 
 Bước sang thế kỷ XVIII, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha từng bước bị loại bỏ (chỉ còn 
một vài thuộc địa nhỏ) nhường chỗ cho Anh, Pháp, Hà Lan, trong cuộc chạy đua xâm 
chiếm thuộc địa của các nước tư bản ở Đông Nam Á nói riêng và Phương Đông nói chung. 
Hà Lan chiếm Indonexia. Năm 1702, thực dân Anh chiếm đảo Côn Lôn (Côn Đảo - thuộc 
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu ngày nay) làm căn cứ nhưng một năm sau chúng đành phải rút lui vì 
bị quân dân trên đảo có sự giúp sức của chúa Nguyễn đánh bại. Tuy nhiên sau đó, từ căn cứ 
ở Ấn Độ, Anh tiến hành xâm lược Bán đảo Mã Lai (Malaixia ngày nay) rồi Miến Điện 
(Mianma ngày nay) Thực dân Pháp thông qua các giáo sĩ truyền đạo tìm mọi cách tiếp 
cận và âm mưu xâm lược bán đảo Đông Dương. Như vậy, tại Đông Nam Á, đối đầu gay gắt 
giữa Anh và Pháp có nguy cơ xảy ra mà cuộc tranh chấp trên đất Xiêm là một bằng chứng 
thực tế. Trong điều kiện lịch sử đó, triều đình Xiêm đã tiến hành những cải cách mang tính 
chất tư sản dưới thời các vua Rama III, IV, đặc biệt dưới thời Chulalongcon (hiệu là Rama 
V) và áp dụng chiến lược nhằm dung hòa thế lực của Anh và Pháp. Xiêm trở thành “nước 
đệm” nhưng trên thực tế Xiêm vẫn là nước phụ thuộc Anh. Để tìm cách thâm nhập Đông 
Nam Á, Mỹ tìm cách hất Tây Ban Nha khỏi Philippin vào năm 1898. Trung quốc - “miếng 
mồi béo bở nhất” cũng từng ngày, từng giờ bị các nước tư bản Âu - Mỹ xâu xé và tìm cách 
“cắt vụn” ra. Đi đầu là thực dân Anh. Việc đánh chiếm Trung Quốc một mặt để chia chác 
“chiếc bánh ngọt khổng lồ”, mặt khác, là để hạ bệ uy thế của “thiên triều” đối với các nước 
chư hầu ở châu Á và khu vực Đông Nam Á. 
2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA KHU VỰC TRƯỚC NGUY CƠ XÂM LƯỢC 
CỦA THỰC DÂN 
 Trước thực trạng như trên, Đông Nam Á nổi lên một số vấn đề có liên quan đến 
Việt Nam: 
 Một là, chính quyền ở hầu hết các nước Đông Nam Á (trừ Xiêm) đều không còn ý 
chí, khả năng tập hợp nhân dân để chống xâm lược cho dù trong hàng ngũ giai cấp thống 
trị không ít người kiên quyết chiến đấu bảo vệ Tổ quốc như Đipônêgrô ở Indonexia, 
Pucom Pao ở Campuchia, Maha Bandula ở Miến Điện, Hàm Nghi cùng các sĩ phu yêu 
nước ở Việt Nam Ở các nước Đông Nam Á, ban đầu triều đình phong kiến cũng tổ 
chức chiến đấu chống xâm lược nhưng dần dần chuyển sang nhượng bộ, đầu hàng và 
chấp nhận làm tay sai cho thực dân. 
 54
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 Hai là, trong giai đoạn chế độ phong kiến suy thoái, ách áp bức bóc lột càng đè 
nặng lên nhân dân. Mâu thuẫn giữa triều đình và giai tầng lao động, đặc biệt mâu thuẫn 
giữa địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân ngày càng gay gắt. Người ta xem thế kỷ 
XVIII ở châu Á là thế kỷ của khởi nghĩa nông dân. Điều này đã làm cho sức chiến đấu 
của nhân dân trước quân xâm lược giảm rất nhiều. 
 Ở Việt Nam, phong trào nông dân bùng lên mạnh mẽ cả ở Đàng Trong và Đàng Ngoài, 
mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra năm 1771, sau đó đã trở thành chiến tranh nông dân 
đánh bại các tập đoàn phong kiến trong nước Nguyễn, Trịnh, Lê và phong kiến xâm lược 
Xiêm, Mãn Thanh, đặt cở sở ban đầu cho công cuộc thống nhất đất nước sau này. 
 Trong khi đó, tại Miến Điện, cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, một cuộc khởi 
nghĩa nông dân đã nổ ra kéo dài tới năm 1810 nhằm chống ách áp bức phong kiến. Bên 
cạnh đó, còn có các cuộc đấu tranh chống phong kiến nhỏ lẻ của các dân tộc ít người 
như của người Môn kéo dài từ nửa sau thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX 
 Như vậy, trong hơn hai thế kỷ (từ XVII đến đầu XIX), phong trào đấu tranh của nông 
dân bùng nổ, lan rộng ở hầu hết các nước trong khu vực, đó là biểu hiện rõ nhất sự suy thoái 
của chế độ phong kiến khu vực. Tuy các cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng đã góp phần làm 
lung lay tận gốc chế độ phong kiến. Một nét độc đáo của phong trào nông dân ở khu vực là 
trước nạn ngoại xâm, nông dân của các nước đã gác quyền lợi của giai cấp mình sang một 
bên, đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết. Họ đã cùng quân triều đình chống xâm lược, song 
khi chính quyền phong kiến đầu hàng ra lệnh “bãi binh” thì nông dân lại chống lại lệnh bãi 
binh của triều đình, rồi đồng thời chống cả xâm lược và phong kiến đầu hàng. 
 Thực tế trên diễn ra rất sinh động ở Việt Nam, khi mà phong trào chống Pháp của 
nhân dân ta đã đi đến nhận thức rằng: Chống Pháp phải đi đôi với chống triều đình phong 
kiến đầu hàng: 
 “Dập dìu trống đánh cờ xiêu 
 Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây” 
 (Khởi nghĩa của Trương Định) 
 Trong khi đó, Philippin, trong “Liên hiệp những người con yêu quý của nhân dân” 
còn gọi là phong trào KATIPUNAN, cuối thế kỷ XIX, đã dần dần kết hợp phong trào yêu 
nước với phong trào nông dân, nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc, xã hội và giai cấp: 
 “Mọi người được bình đẳng, không phân biệt màu da, giàu nghèo và địa vị xã hội. 
Chống áp bức xã hội, bảo vệ những người bị áp bức. Giành độc lập tự do cho Tổ quốc”. 
 Trong cuộc kháng chiến ba lần chống xâm lược Anh (1824- 1885), nhân dân Miến 
Điện đã cùng quân triều đình ngăn chặn âm mưu và kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh 
của kẻ thù, làm cho chúng phải mất 6 thập kỷ mới chinh phục được Miến Điện 
 Nhìn chung, phong trào nông dân khu vực nổ ra liên tục, kéo dài, rộng lớn và quyết 
liệt kết hợp được mục tiêu chống xâm lược và giải phóng dân tộc. Tuy vậy các phong trào 
vì thiếu đường lối tiên tiến, nên chưa xác định được con đường cứu nước mới. Người 
nông dân không thể tự giải phóng cho mình mà sẽ đi vào con đường phong kiến hóa. 
 55
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 Ba là, sức sống của xã hội các quốc gia khu vực dưới chế độ phong kiến đang suy 
tàn thể hiện rõ ở những xu thế canh tân đất nước với nhiều mức độ và mang màu sắc với 
nhiều hình thức khác nhau. Mầm mống tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển. Giai 
cấp phong kiến trong nước đã tìm mọi cách hoặc là hạn chế, hoặc là bóp chết các mầm 
mống này. Trong khi đó, các nước tư bản Âu - Mỹ khi tiến hành các cuộc chiến tranh xâm 
lược và đô hộ ở khu vực cũng tìm mọi cách để tiêu diệt sức sống mới trong xã hội các 
nước thuộc địa. Vì thế, những xu hướng canh tân đất nước ở khu vực vào nửa đầu thế kỷ 
XIX đã tồn tại và phát triển vô cùng khó khăn (trừ Xiêm) bởi vì, các xu hướng canh tân 
và việc thực hiện thành công nó gắn liền với việc giảm bớt quyền lực của các chính quyền 
phong kiến và đánh thắng các thế lực xâm lược. Đa số giai cấp phong kiến thống trị trong 
khu vực với tư tưởng bảo thủ, không dễ gì chấp nhận sự hạn chế quyền lực của mình và 
các thế lực xâm lược cũng ra sức kìm hãm để dễ bề thống trị. 
3. VẤN ĐỀ CẦN TRAO ĐỔI 
 Trong bối cảnh chung của khu vực, chúng ta nhận thấy rằng xu hướng canh tân 
đất nước vẫn là xu hướng chung của các nước trong khu vực và châu lục. Thế kỷ XIX là 
thế kỷ của xu hướng canh tân đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa ở khu vực và 
châu lục. Xu thế này có thể trở thành hiện thực hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào cơ 
sở xã hội, thái độ của triều đình phong kiến mỗi nước. Thực tế, những điều kiện chủ quan 
và khách quan cho một cuộc canh tân đất nước lúc này ở mỗi nước đã chín muồi. sự phản 
ứng, sự chống đối của phe đối lập và sự sáng suốt của lực lượng lãnh đạo cấp tiến, lực 
lượng của phái canh tân ở mỗi quốc gia, khu vực và châu lục là những yếu tố cơ bản 
quyết định đến sự thành công hay thất bại của công cuộc canh tân đất nước. Đây chính là 
một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta có thái độ đúng đắn, khách quan và công 
minh trong việc nhận định trách nhiệm làm mất nước của giai cấp phong kiến thống trị ở 
các quốc gia khu vực và nhằm làm rõ thêm nhận định việc mất nước là “tất yếu hay không 
tất yếu” của các quốc gia khu vực, trong đó có Việt Nam. 
 Đặt Việt Nam giai đoạn (1802 - 1884) trong bối cảnh chung của lịch sử khu vực 
Đông Nam Á trước khi các nước thực dân Âu - Mỹ xâm lược, mở rộng xâm lược và 
thống trị ở khu vực là việc làm cần thiết để hiểu rõ hơn lý do mất nước và trách nhiệm của 
nhà Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp năm 1884. Chúng ta cần có 
một thái độ khách quan, khoa học căn cứ trên những tài liệu lịch sử chính xác để đi đến 
những kết luận đúng đắn, không áp đặt và công bằng cho nhà Nguyễn - triều đại cuối 
cùng trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. 
 56
 TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 1. 2009 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Phạm Gia Hải (chủ biên) - Phạm Hữu Lư, “ Lịch sử thế giới cận đại” (1871 - 1918) 
 tập 2, NXB Giáo dục, Hà nội, 1992,( phần các nước Đông Nam Á). 
[2] Nguyễn Văn Hồng, “Mấy vấn đề lịch sử châu Á và lịch sử Việt Nam - Hai cách 
 nhìn”, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002, tr 182; 192; 215- 232; 232- 261. 
[3] Lương Ninh, Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh, “Lịch sử Đông Nam Á”, NXB GD, 
 Hà Nội, 2006. 
[4] Vũ Dương Ninh - Nguyễn Văn Hồng, “Đại cương lịch sử thế giới cận đại” tập 2, 
 NXB Giáo dục, 1997, tr 10. 
 NGUYEN DYNASTY IN THE PERIOD 1802 - 1884 IN THE 
 COMPARISON WITH OTHER COUNTRIES IN SOUTH EAST ASIA 
 Le Van Chien1 
 1 Faculty of Social Sciences, Hong Duc University 
 ABTRACT 
 Nguyen Dynasty (1802-1945) has been acknowledged with different points of 
view, some of which praise Nguyen Dynasty, others deny its contributions to the 
country. The author has put Vietnam in the historical setting of South East Asia and in 
the broader setting of Asia in the 19th century in order to have a better understanding of 
the reasons for losing country and the responsibility of Nguyen Dynasty for the loss of 
country to the French Colony in 1884. 
 57

File đính kèm:

  • pdfvuong_trieu_nguyen_giai_doan_1802_1884_trong_so_sanh_voi_cac.pdf