Kinh lá buông: Di sản văn hóa phi vật thể của người Khmer An Giang
Kinh lá buông của người Khmer là một trong những tài liệu
quý, hiếm của Phật giáo Nam Tông. Nó được xem là minh chứng
cho thời kỳ hình thành và phát triển của loại hình kinh điển Phật
giáo. Kinh lá buông nằm trong hệ thống kinh lá phổ biến của Phật
giáo Theravada vùng Đông Nam Á và Nam Á. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính với các
kỹ thuật nghiên cứu thực địa và nghiên cứu tư liệu. Qua quá trình
nghiên cứu, chúng tôi đã tìm hiểu được nguồn gốc, kỹ thuật chế
tác kinh lá buông của người Khmer tại tỉnh An Giang. Đồng thời,
nghiên cứu còn đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm bảo tồn
và phát triển kinh lá buông của người Khmer tại An Giang. Qua
đó, chúng ta có cái nhìn khái quát hơn về các giá trị chứa trong
kinh lá buông và kỹ thuật chế tác đặc sắc của loại hình kinh tạng
này. Đồng thời, chúng ta có thể nhìn nhận tầm quan trọng của
kinh lá buông trong đời sống Phật tử Nam Tông Khmer, mà các
giá trị này cần phải được bảo tồn và phát triển.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kinh lá buông: Di sản văn hóa phi vật thể của người Khmer An Giang
nh thường không quy định số quyển, tùy thuộc vào nội dung các loại kinh mà số quyển kinh nhiều hay ít. Việc lưu giữ kinh lá buông cũng không cầu kỳ. Trước đây, một số ngôi chùa thường dùng tủ gỗ để cất giữ kinh. Kinh lá buông được đặt chung với các loại kinh sách khác. Tuy nhiên, theo thời gian, sự xâm hại của các loài côn trùng như gián, chuột đã làm hư hại một phần các quyển kinh lá cũng như kinh sách. Chính vì thế, hầu hết tại các chùa Khmer ngày nay, họ thường dùng tủ kính để cất giữ kinh điển. Thường thì các loại kinh sách được đặt ở các ngăn dưới cùng. Kinh lá buông được đặt trịnh trọng ở ngăn tủ trên cùng, xếp theo thứ tự các bộ kinh thật gọn gàng và ngăn nắp. 3.4. Những giá trị của Kinh lá buông Kinh lá buông là sản phẩm của một quá trình tồn tại và phát triển của Phật giáo Nam Tông nói chung và Phật giáo Nam Tông Khmer nói riêng. Là một phần không thể thiếu trong đời sống tôn giáo của người Khmer, kinh lá buông chứa đựng nhiều giá trị về lịch sử và văn hóa. 3.4.1. Giá trị lịch sử Như đã nêu ở trên, kinh lá buông đã tồn tại từ rất lâu tại Việt Nam nói chung và An Giang nói riêng. Giá trị lịch sử của nó nằm ở chính quá trình hình thành và phát triển. Việc khởi xướng Đại hội kết tập kinh điển của tỳ khưu Đại Ca Diếp (Mahasakapa) thể hiện tính thống nhất trong hệ thống giáo lý mà đức Phật đã giáo huấn. Mục đích của các cuộc kết tập kinh điển là thảo luận các giáo lý, giáo điều và những điều Phật dạy để đi đến thống nhất chung thành một hệ thống. Bên cạnh đó, kết tập cũng nhằm để các vị chư tăng, tỳ khưu thảo luận và lược bỏ những điều không còn phù hợp. (Thien Minh, 2010) Bước đầu, các cuộc kết tập chỉ được thực hiện thông qua việc thảo luận và thống nhất bằng lời nói. Mãi cho đến lần kết tập thứ tư, tất cả các giáo lý đó mới được ghi chép vào một loại lá dùng để lưu truyền sau này, từ đó hình thành nên kinh lá. Vậy nên, kinh lá cũng là một loại tài liệu đánh dấu sự ra đời sơ khai của kinh điển bằng văn bản. Khi Phật giáo Nam Tông Khmer được truyền vào Việt Nam, kinh lá buông đã tồn tại. Hầu hết các sư sãi đều khẳng định rằng khi họ lớn lên thì đã thấy và tiếp xúc với kinh lá buông rồi. Trải qua các cuộc chiến tranh, chính những người thầy, người sư này đã mang theo những bộ kinh lá buông trong quá trình di cư tránh giặc. Sư cả Chau Kắk kể thêm rằng, cũng chính những cuộc di cư của Phật tử đã làm thất thoát một số lượng lớn kinh lá buông. Chính sự tồn tại của kinh lá buông từ lúc mới hình thành, trải qua những cuộc chiến tranh, những lần thất lạc, kinh lá buông đã khẳng định vai trò của mình trong lòng các Phật tử người Khmer. 3.4.2. Giá trị văn hóa Về nội dung, kinh lá buông chứa đựng những điều Phật dạy, những đạo lý cơ bản làm người, những câu chuyện mang tính giáo dục cao. Kinh lá buông bao gồm: kinh Phật, Tam tạng kinh, truyện Ramayana, truyện Catêlok (rút ra bài học ở đời), truyện kể dân gian Khmer, tục ngữ, thành ngữ, Trong đó, một phần không thể thiếu đó là những câu chuyện kể về cuộc đời đức Phật. Nó ghi nhận lịch sử cuộc đời mà đức Phật đã trải qua. Giá trị văn hóa của kinh lá buông nằm ở nội dung của nó. Tuy nhiên, trong hầu hết các quyển kinh lá buông, nội dung của nó là những câu thoại hỏi đáp. Các bộ kinh được xếp theo chủ đề nhất định. (1) Giáo huấn ca – Satra bắp 104 Nguyễn V. Lùng, Nguyễn, T. T. Anh. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 97-107 (2) Truyện ngụ ngôn dân gian – Satra La beng (La bớk) (3) Truyện cổ tích – Satra Tâm nong (Satra Rương) (4) Những kinh Phật và Phật thoại – Satra Tes (Pham, 2011) Về hình thức, kinh lá buông được khắc trên lá buông bằng hai loại chữ là chữ Pali và Khmer cổ. Hầu hết tất cả các quyển kinh đều sử dụng hệ thống chữ Pali. (Soumen, Arnab, & Swapna, 2017) Tuy nhiên, một số quyển còn sử dụng hệ thống chữ Khmer cổ cho việc chạm khắc bìa kinh. Chữ khắc trên bìa của kinh lá buông chủ yếu được chạm khắc theo một mô hình nhất định. Hàng trên cùng là dòng chữ đề tên quyển kinh bằng chữ Pali. Hàng thứ hai là thời gian thể hiện thời gian mà giáo lý đó ra đời hoặc thời gian quyển kinh đó ra đời với hai loại thời gian là Dương lịch (tính theo năm Dương lịch như hiện nay) và lịch của người Khmer. Dòng chữ này cũng được viết bằng chữ Pali. Dòng cuối cùng là dòng chữ Khmer cổ với ý nghĩa chung là quyển kinh này sử dụng trong chùa Phật giáo Theravada. Nhưng tùy vào nội dung, có thể phân bố số dòng trên bìa nhiều hơn, nội dung cũng có thể được thêm vào là trích yếu nội dung quyển kinh đó. 4. Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát triển 4.1. Thực trạng 4.1.1. Về kỹ thuật chế tác Sau một thời gian dài, kỹ thuật chế tác kinh lá buông hầu như bị lãng quên trong cộng đồng Phật tử Khmer tại An Giang do nhiều yếu tố: (1) Nguồn nguyên liệu khan hiếm. Như đã biết, nguyên liệu chính để chế tác kinh lá buông là lá buông. Để tạo ra được “giấy” từ lá buông phải trải qua rất nhiều công đoạn. Đồng thời trong thời gian gần đây, việc khai phá các ngọn núi làm nương rẫy, làm đường phục vụ du lịch đã ảnh hưởng đến số lượng cây buông. Kết hợp giữa việc cây buông hạn chế và khó sơ chế lá buông, “giấy” được làm cây buông trở nên ít ỏi. Các sư sãi muốn khắc kinh phải đi mua lá buông từ Campuchia về. (2) Người biết khắc kinh lá buông không nhiều. Trong khoảng thời gian trước năm 2013, tại An Giang chỉ có vị sư cả Chau Ty (chùa Soài So, Tri Tôn) là người biết khắc Kinh lá Buông. Đến thời gian gần đây, việc đào tạo người khắc kinh mới được quan tâm, tuy nhiên số lượng vẫn không nhiều. Việc khắc kinh cần người có kiến thức về kinh Phật, đặc biệt là kinh được viết bằng tiếng Pali và tiếng Khmer cổ. Bên cạnh đó, khắc kinh đòi hỏi người phải cần kiên nhẫn và sự kỳ công để tạo ra quyển kinh vừa mang giá trị thẩm mĩ, vừa có ý nghĩa về mặt văn hóa, tôn giáo. 4.1.2. Về hình thức sử dụng và công tác truyền dạy Hiện nay, người biết khắc kinh lá buông tại An Giang còn rất ít. Hầu hết các sư sãi ở các chùa trên địa bàn huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên đều không biết chạm khắc kinh trên lá buông. Không kể đến kỹ thuật chạm khắc cần một thời gian dài học tập và rèn luyện, vấn đề hiểu được nội dung của loại kinh này cũng rất quan trọng. Hầu hết các bộ kinh lá buông được chạm khắc bằng chữ Pali, một vài loại còn sử dụng của chứ Khmer cổ, nhưng bộ phận không nhỏ lại sử dụng cả hai loại chữ này trên cùng một quyển. Điều này gây khó khăn không ít cho Phật tử muốn học kinh Phật từ Kinh lá buông. Nguyễn V. Lùng, Nguyễn, T. T. Anh. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 97-107 105 4.1.3. Về công tác thống kê và lưu trữ Theo khảo sát, hầu hết chính tại các chùa vẫn không thể nắm rõ số lượng kinh lá mà mình đang cất giữ biến động như thế nào qua thời gian (số lượng trước đây và số lượng hiện tại). Chỉ khi bộ phận có thẩm quyền kiểm kê, số lượng kinh lá buông mới được công bố. Đồng thời, việc cất giữ kinh lá buông hiện nay vẫn còn nhiều bất cập: (1) Kinh lá buông dễ bị mối mọt xâm hại, côn trùng cắn phá. So với các loại lá có thể chạm khắc kinh Phật như lá thốt nốt, lá cọ thì lá buông có ưu điểm dẻo dai hơn, ít chịu sự xâm hại của mối mọt hơn, Tuy nhiên, tại một số ngôi chùa như chùa Mỹ Á (huyện Tịnh Biên), chùa Sà Lôn (huyện Tri Tôn), chùa Bưng (huyện Tri Tôn), do không bảo quản tốt và không có phương pháp cất giữ để tránh mối mọt, cột trùng nên một số lượng kinh đã bị xâm hại; (2) Kinh lá buông bị thất lạc trong quá trình lưu trữ. Trong việc cất giữ, nhà chùa cất giữ kinh lá buông chung với những loại kinh sách khác nhau, gây ra xáo trộn và thiếu kiểm soát số lượng. Ngoài ra, việc di chuyển kinh từ nơi này sang nơi khác mà không có sự quản lý cũng là một trong những nguyên nhân gây thất lạc. 4.1.4. Về hoạt động bảo tồn và phát triển Cùng với việc lập kế hoạch tổ chức lớp dạy chạm khắc chữ trên lá buông, sở Nội vụ tỉnh An Giang đã đề nghị Sở Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch tiếp nhận việc lập hồ sơ đề cử kinh lá buông vào Danh mục tư liệu thuộc “Chương trình ký ức thế giới” của UNESCO. Theo đó, trong năm 2014, sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang đã tiến hành lập hồ sơ đề cử kinh lá buông vào Danh mục tư liệu thuộc “Chương trình ký ức thế giới” của UNESCO. Tuy nhiên, hồ sơ đề cử vấp phải một số khó khăn về tiêu chí đề cử, dẫn đến việc đề cử kinh lá buông vào Danh mục tư liệu thuộc chương trình trên không được thực hiện. Đến năm 2017, kinh lá buông chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang đã thành lập Ban quản lý cấp tỉnh để giữ gìn, bảo quản lâu dài. Sở cũng đã chủ động phối hợp cùng Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện các biện pháp bảo tồn. 4.2. Giải pháp, kiến nghị Thực tế cho thấy, nếu xem xét và nhìn nhận kinh lá buông là một loại tài liệu quý hiếm và xét chúng vào các giá trị thuộc di sản văn hóa thì công tác bảo tồn loại hình này cần được xây dựng một cách có khoa học và đúng với điều kiện thực tế. 4.2.1. Công tác kiểm kê, khảo sát, nghiên cứu Kiểm kê kinh lá buông là bước đầu và là hoạt động nghiên cứu nền tảng nhằm nắm được toàn bộ số lượng hoặc một bộ phận tiêu biểu cho số lượng có trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó, chúng ta mới có thể tiến hành các công tác tiếp theo là phân loại, đánh giá dựa trên cơ sở kết quả chính xác ban đầu. Nhận diện và xác định giá trị kinh lá buông là hoạt động nghiên cứu cần thiết nhằm xác định chính xác tên gọi (bao gồm chính thức và tên gọi theo địa phương), loại hình di sản, chủ thể văn hóa, không gian văn hóa, đặc điểm và giá trị lịch sử, văn hóa, của kinh lá buông. Bên cạnh đó, cần có các nhiệm vụ khoa học liên quan đến nghiên cứu về kinh lá buông, nguồn gốc, ý nghĩa và vị trí của chúng trong hệ thống kinh lá của Đông Nam Á. 4.2.2. Tiếp tục mở rộng các lớp truyền dạy khắc Kinh lá buông 106 Nguyễn V. Lùng, Nguyễn, T. T. Anh. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 97-107 Các chùa cần chú trọng công tác mở lớp truyền dạy khắc kinh lá buông cho các Phật tử Khmer. Trong đó, các lớp học nên được tổ chức giảng dạy và thực hành thường xuyên, chú trọng vào chất lượng học viên khi hoàn thành khóa học. Nếu cấp thiết, có thể nghiên cứu khung chương trình dạy một cách khoa học, phù hợp với điều kiện hiện tại. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần chú trọng hỗ trợ điều kiện giảng dạy cho các nghệ nhân dạy khắc kinh. Như vậy, cần trang bị cơ sở vật chất giảng dạy phù hợp, hỗ trợ chi phí giảng dạy, mua nguyên liệu, Đồng thời, cơ quan quản lý cần thực hiện thống kê số lượng học viên đầu vào và kiểm tra chất lượng học viên đầu ra. 4.2.3. Tổ chức lưu trữ Các chùa cần chú trọng công tác lưu trữ. Cần tiến hành phân loại kinh lá buông để thuận tiện cho việc theo dõi. Đồng thời, việc thường xuyên kiểm tra số lượng và hình thức của toàn bộ kinh lá cần được quan tâm. Ghi chú báo cáo tình hình kiểm tra, nếu có thất thoát hay hư hại thì ghi rõ nguyên nhân và báo cáo về cơ quan chức năng để giải quyết kịp thời. Ủy ban Nhân dân các xã, huyện cần đề xuất việc hỗ trợ tủ chứa cho các chùa. Song song đó cần phối hợp với các đơn vị phòng chống côn trùng thực hiện phun xịt để bảo vệ tài sản kinh lá buông. Việc cấp thiết nhất là ban hành quy định về công tác bảo tồn, quy định kinh lá buông là nguồn tài liệu, di sản thuộc sở hữu của nhà nước. 4.2.4. Truyền bá giá trị kinh lá buông Cần tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của kinh lá buông. Từ đó để các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là Phật tử người Khmer hiểu được đây là nguồn tài liệu quý, hiếm của Phật giáo Nam Tông Khmer mà ông cha ta đã cất công chế tác và giữ gìn cho đến ngày nay. Các chùa cần tiếp tục phát huy hết giá trị kinh lá buông bằng cách đưa kinh lá buông vào hoạt động cộng đồng và tôn giáo. Trong đó, tiếp tục đưa vào thuyết giảng tại các buổi lễ, các lễ hội và giảng dạy cho Phật tử. Ngoài một số giải pháp trên, các chính quyền cần đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy giá trị của kinh lá buông. Đồng thời áp dụng các phương pháp bảo tồn giống cây buông một cách thiết thực nhất nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu cho việc khắc kinh. Theo đó, cần khảo sát và du nhập giống cây buông về các khu vực có điều kiện sinh sống phù hợp. Hỗ trợ kinh phí cho các chùa thực hiện mua giống cây buông hoặc lá buông đã qua sơ chế. 5. Kết luận Kinh lá buông là một loại tài liệu quý, hiếm, là một di sản của Phật giáo Nam Tông Khmer. Chứa đựng trong đó là các giá trị văn hóa và giá trị lịch sử của một loại hình kinh tạng của người Khmer. Kỹ thuật chế tác kinh lá buông là cả một kho tàng cho các tín đồ Phật giáo Nam Tông Khmer học tập. Bên cạnh các kỹ thuật cần sự chú tâm và tỉ mỉ, khắc kinh lá buông còn đòi hỏi người thực hiện có vốn hiểu biết sâu sắc về đạo Phật, về ngôn ngữ trong kinh lá buông và các giá trị chứa trong nó. Chính vì thế, cần có những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát triển kinh lá buông khỏi nguy cơ bị thất truyền, dần đưa kinh lá buông tham gia vào các hoạt động của Phật tử người Khmer. Nguyễn V. Lùng, Nguyễn, T. T. Anh. HCMCOUJS-Khoa học Xã hội, 16(1), 97-107 107 Tài liệu tham khảo Mon, T. V. (2016). Palm leaf manuscripts of the Cham people in Vietnam. Studies on Asia Series V, 1(1), 122-137. Narenthiran, R., Saravaan, G., & Rammunujam, K. (2012). The digitization of palmleaf manuscripts. Society for the Advancement of Library annd Information Science, 457-462. Nguyen, M. C. (2008). Phật giáo Khmer Nam Bộ (Những vấn đề nhìn lại) [Southern Khmer Buddhism (Looking back issues)]. Hanoi, Vietnam: NXB Tôn Giáo. Pham, T. P. H. (2011). Văn hóa Khmer Nam Bộ - Nét đẹp trong bản sắc văn hóa Việt Nam [Khmer culture in the South - The beauty of Vietnamese cultural identity]. Cần Thơ, Vietnam: NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật. Soumen, G., Arnab, M., & Swapna, B. (2017). Palm leaf manuscript conservation, the process of seasoning with special reference to Saraswati Mahal library, Tamilnadu in India: Some techniques. International Journal of Information Movement, 2(II), 122-128. Surinta, O., & Rapeeporn, C. (2008). Image segmentation of historical handwriting from palm leaf manuscripts. International Federationn Processtingg, 288, 182-189. Thich, V. G. (2012). Khái quát lịch sử truyền bá kinh điển và những đặc điểm của kinh tạng Nikaya [An overview of the transmission history of the scriptures and the features of the Nikaya Sutras]. Retrieved March 15, 2021, from Đạo Phật ngày nay website: kinh-dien-va-nhung-dac-diem-cua-kinh-tang-nikaya.html Thien Minh (2010). Lịch sử kết tập kinh điển và truyền giáo [The history of classics and evangelization]. Retrieved March 15, 2021, from từ Đạo Phật ngày nay website: dien-va-Truyen-giao.html Viện Văn hóa. (1988). Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ [Learn cultural capital of ethnic Khmer in the South]. Hậu Giang, Vietnam: NXB Tổng hợp Hậu Giang.
File đính kèm:
- kinh_la_buong_di_san_van_hoa_phi_vat_the_cua_nguoi_khmer_an.pdf