Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương

Đời sống thNm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương được đan hòa trong chính những

giá trị vật chất và tinh thần của con người thời kỳ này. Bài viết tập trung phân tích một số biểu hiện

trong đời sống thNm mỹ thông qua đời sống vật chất của người Việt thời kỳ Hùng Vương. Trên cơ

sở đó, bài viết khẳng định sâu sắc hơn giá trị và tự hào Việt Nam, trong đó có các giá trị thNm mỹ

dân tộc.

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 1

Trang 1

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 2

Trang 2

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 3

Trang 3

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 4

Trang 4

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 5

Trang 5

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 6

Trang 6

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 7

Trang 7

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 8

Trang 8

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 9

Trang 9

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 840
Bạn đang xem tài liệu "Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương

Đời sống thẩm mỹ của người Việt thời kỳ Hùng Vương
a mình
trong sự hòa hợp với thiên nhiên và điều kiện
sản xuất, sinh hoạt, điều kiện kinh tế - văn hóa
xã hội, yếu tố truyền thống và quan điểm thNm
mỹ của họ. Trang phục thể hiện rõ tính chất
trang phục của cư dân vùng nhiệt đới nóng Nm.
Quần áo, váy, khăn... cắt may đơn giản, nhẹ
nhàng từ những loại vải mỏng thoáng; đồng
thời cũng phản ánh phần nào trình độ phát triển
kinh tế - xã hội đương thời, một xã hội có nền
kinh tế phát triển, có những sinh hoạt cộng
đồng phong phú, có sự phân hóa giàu nghèo rõ
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
46
nét từ đầu tóc (kiểu tóc cắt ngắn, kiểu búi tó,
kiểu tết bím, kiểu quấn tóc ngược lên đỉnh đầu),
đến lối ăn mặc, đồ trang sức. Đặc trưng nổi bật
của trang phục thời kỳ Hùng Vương là “tính
giản dị, gọn gàng, thích nghi cao độ với khí
hậu, thiên nhiên và tính chất lao động. Hình ảnh
người đàn ông tóc cắt ngắn hay búi tó, cởi trần,
đóng khố, chân đi đất, còn phụ nữ thì tóc vấn
cao trên đầu, mặc yếm nhỏ chỉ để che phần
ngực, váy chui dài quá đầu gối, chân đi đất,
không xa lạ gì với chúng ta” [3, tr.345]. Với
những đặc trưng đó, thời kỳ Hùng Vương
và người Việt thời kỳ Hùng Vương đã đặt
những viên gạch móng đầu tiên cho truyền
thống, bản sắc và tính thNm mỹ riêng của
dân tộc Việt Nam.
Ngoài ra, trong đời sống vật chất của
mình, người Việt thời kỳ Hùng Vương còn
thể hiện mỹ cảm ở sự phù hợp với địa hình.
Họ tạo ra các phương tiện giao thông phù
hợp với điều kiện địa hình. Về giao thông
đường sông (ở các con sông lớn hoặc chi
lưu của chúng), thuyền bè được sử dụng với
những mục đích khác nhau như dùng để
đánh cá; dùng để di chuyển, chuyên chở
người và đồ vật; thực hiện các mối giao lưu
văn hóa với các nền văn hóa, văn minh láng
giềng. Trên đường bộ, họ lại đi bộ và gánh
gồng, mang vác trên vai, trên lưng. Họ còn
sử dụng súc vật, chủ yếu là voi để di
chuyển và chủ yếu là chuyên chở hàng hóa.
Bên cạnh đó, đời sống thNm mỹ còn
được thể hiện ở quan hệ vật chất giữa người
với người thời kỳ này. “Các thành viên còn
coi sự công bằng về mặt vật chất và quyền
lợi là một trong những giá trị đẹp của cuộc
sống: Hùng Vương đi săn được thú, lấy bộ
lòng cùng ăn ngay tại chỗ, thịt về nhà chia”
[3, tr.353]. Vua dạy dân cấy lúa, săn thú...
Sự phân hóa xã hội “diễn ra không thật sâu
sắc, sự cách biệt giữa các giai tầng không
lớn lắm” [3, tr.402]. Trong cuộc sống của
họ, vấn đề lợi ích vật chất cũng đã trở thành
một khía cạnh thNm mỹ khi nó vẫn thuần
khiết là sự công bằng giữa người với người,
dù đó là người đứng đầu hay vô số những
con người bình thường khác.
Những khía cạnh của cuộc sống hàng
ngày đã giúp ta thấy được sự hài hòa giữa
con người với tự nhiên để duy trì sự tồn tại
và phát triển của chính con người. Đồng
thời cũng thấy được sự hài hòa, sẻ chia giữa
con người với con người trước vấn đề lợi
ích. Điều đó đã khắc họa những nét ban đầu
trong đời sống thNm mỹ của người Việt thời
kỳ Hùng Vương.
4.Đời sống thm mỹ trong xây dựng và chiến
đấu của người Việt thời kỳHùng Vương
Thời kỳ Hùng Vương “diễn ra không ít
những cuộc chiến tranh giành quyền lực
giữa các bộ lạc, liên minh bộ lạc, đến giai
đoạn muộn lại rơi vào cuộc đấu tranh
thường xuyên với các thế lực xâm lược
phương Bắc để giữ nước giữ nhà” [3,
tr.344]. Vì vậy, việc tạo ra các loại vũ khí là
điều không thể thiếu trong chiến đấu của
người Việt thời kỳ này. Ngoài mục đích
chiến đấu thì chính các loại vũ khí đó cũng
đã thể hiện được những yếu tố đầu tiên
trong đời sống thNm mỹ của người Việt thời
kỳ Hùng Vương.
Việc đảm bảo tính hiệu quả của vũ khí là
biểu hiện trước nhất của yếu tố thNm mỹ. Dù
là loại vũ khí nào thì cũng phải có khả năng
sát thương đối thủ, tùy thân, đảm bảo an
toàn cho người sử dụng. Nghĩa là, về khía
cạnh thNm mỹ, người Việt thời kỳ Hùng
Vương đã rất quan tâm tới yếu tố công dụng,
hiệu quả của vũ khí. Đầu tiên là giáo, bắt
đầu từ giáo đá Phùng Nguyên, đều có cùng
một kiểu lưỡi hình tam giác cân, mũi nhọn,
có họng tra cán; rìu vừa là công cụ lao động
vừa được dùng là vũ khí trong từng trường
hợp bất thường (gọi là rìu chiến), đặc biệt là
loại rìu hình lưỡi xéo; dao găm; kiếm; dao
LêThị Thùy
47
chiến với thân dao là một khối hình chữ nhật
dẹt, rìa lưỡi nằm dọc thân, uốn lượn và rất
sắc, sống dao là họng tra cán, cũng nằm dọc
thân, gần như song song với rìa lưỡi nhưng
không uốn lượn giống rìa lưỡi, mặt cắt
ngang họng hình gần tròn, một đầu dao cong
vồng lên, đầu kia vát choãi thẳng từ đầu
họng đến đầu mũi dưới, dao chiến có chức
năng chính là chặt, chém và bổ, các lưỡi dao
đều nặng và chắc khi được lắp thêm cán dài,
lực tác động của chúng sẽ tăng lên. Tất cả
các loại vũ khí này đều phải nhọn, sắc để sát
thương đối thủ, bảo vệ người sử dụng mặc
dù mỗi loại được thiết kế khác nhau, trang trí
khác nhau.
Đặc biệt khi nói tới hiệu quả sát thương,
chúng ta phải nói tới nỏ. Trước nạn ngoại
xâm của giặc phương Bắc với số quân rất
đông, người Việt cổ với số quân nhỏ hơn
rất nhiều lần, vì thế người Việt cổ đã chế ra
một loại vũ khí sát thương hàng loạt. Linh
Quang Kim Trảo Thần Nỏ còn được gọi là
Nỏ liên châu hay Nỏ thần do tướng quân
Cao Lỗ chế tạo dưới thời Thục Phán An
Dương Vương nhà nước Âu Lạc chính là cỗ
“súng máy" có thể bắn ra nhiều mũi tên liên
tiếp khiến quân phương Bắc khiếp sợ suốt
một thời gian dài với khả năng sát thương
hàng loạt rất nguy hiểm. Sự hiệu quả của nỏ
Đông Sơn đã đi vào truyền thuyết trong
công cuộc chống giặc ngoại xâm, giữ nước
của dân tộc Việt. Theo tương truyền bắn
một lần được nhiều phát mà các mũi tên
được sử dụng là loại tên lớn, thân gỗ cứng
đều bịt đồng sắc nhọn, khi bắn có thể xuyên
thủng cả áo giáp, khiên chắn. Khi Triệu Đà
cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các
tay nỏ liên châu bắn mỗi phát ra hàng loạt
mũi tên đồng như mưa, thây chết đầy nội và
phải lui binh. Nỏ liên châu là vũ khí bí mật,
lợi hại, có hiệu quả sát thương cao, là niềm
tự hào của người Việt cổ trong cuộc chiến
chống xâm lược phương Bắc, bảo vệ bờ cõi.
Đồng thời cũng thể hiện tư duy khoa học,
thNm mỹ khá cao của người Việt thời kỳ
Hùng Vương.
Yếu tố thNm mỹ còn bộc lộ ở tính thuận
tiện, gọn nhẹ, phù hợp với hoàn cảnh chiến
đấu dưới nước hay trên cạn, phù hợp với
mục đích của người sử dụng để sát thương
hay để phòng ngự, thể hiện tâm thế, mục
đích, khoảng cách tác động của người sử
dụng... Ngoài những vũ khí sát thương như
nói ở trên, người Việt thời kỳ Hùng Vương
còn sáng tạo ra những vũ khí phục vụ cho
mục đích phòng hộ. Đó là tấm che ngực và
lá chắn. Tấm che ngực hay còn gọi là hộ
tâm phiến. Căn cứ vào hình dáng, các tấm
che ngực thời Hùng Vương được chia thành
hai loại hình chữ nhật và hình vuông. Lá
chắn gồm hai phần: phần dưới thân và phần
trên có hình như chiếc lông chim hay bông
lau cắm vào phần thân dưới.
Tùy vào mục đích và khoảng cách tác
động của người sử dụng, vũ khí được chia
thành: vũ khí đánh xa thì có cung tên, nỏ,
lao; vũ khí đánh gần thì có giáo, rìu, dao
găm, qua, kiếm...; vũ khí phòng hộ thì có
hộ tâm phiến, khiên, mộc... “Bằng tư duy
phân loại, người Đông Sơn còn làm ra
nhiều vũ khí, mỗi loại một cách riêng để sát
thương: vũ khí tầm xa thì có cung, nỏ, lao...
vũ khí tầm gần thì có giáo, dao, qua... Để
phòng ngự thì có những tấm che ngực bằng
đồng” [3, tr.354].
Giữa các loại vũ khí khác nhau lại có
những đặc trưng phân biệt riêng. Chẳng hạn
như lao là vũ khí tầm trung được sử dụng
bằng cách phóng. Chiếc lao có hình dáng
tương tự như giáo và một số mũi tên. Lao,
giáo, mũi tên được phân biệt trước hết ở
kích thước: lớn nhất là giáo, nhỏ nhất là tên,
lao thuộc cỡ trung bình, nằm giữa giáo và
tên. Mũi lao được mài nhọn, chuôi lao được
mài vát đều hai bên nhỏ lại hơn bề rộng
thân, giữa thân và chuôi bao giờ cũng có
phần gờ nối tạo thuận tiện cho việc buộc
thêm cán. Hay cùng một loại vũ khí nhưng
Khoahọc xã hội Việt Nam, số 8 - 2019
48
lại có sự phân loại nhỏ hơn. Cụ thể như dao
găm, phần lớn có phần lưỡi giống nhau, sự
khác biệt nằm ở phần cán. Căn cứ vào hình
dạng cán, có thể chia dao găm Đông Sơn
thành 5 loại chính: hình chữ T, hình củ
hành, dao găm có chắn tay, có chắn tay
thẳng và dao găm cán tượng. Hoặc khi nói
tới kiếm, chúng cũng được phân loại giống
dao găm, gồm 3 loại: kiếm có chuôi chữ T,
kiếm có tay chắn thẳng và kiếm cán tượng.
Qua thời gian, vũ khí thời kỳ Hùng
Vương dần được hoàn thiện hơn, đảm bảo
tính ưu việt và thuận tiện hơn. Đó là quá
trình hướng tới tính thNm mỹ rõ nét hơn,
đẹp hơn, là sự sàng lọc để đảm bảo tính
hiệu quả. Chẳng hạn như ở giai đoạn đầu
thời kỳ Hùng Vương, các mũi tên chủ yếu
được làm bằng đá, được chế tác đơn chiếc,
không theo một quy chuNn chặt chẽ nào, đa
dạng về kích thước. Tiếp đến là các mũi tên
xương, đa số được chế tạo từ những đoạn
xương ống lớn. Với kỹ thuật chặt, chẻ, mài,
người Việt thời kỳ Hùng Vương đã tạo ra
được các hình dạng mũi tên khác nhau. Mũi
tên xương thường có kích thước lớn hơn
mũi tên đá, đặc biệt về chiều dài. Mũi tên
xương tuy dễ chế tác hơn và có lợi thế hơn
về chiều dài so với mũi tên đá, nhưng lại
thua mũi tên đá ở độ xuyên thủng do chất
liệu xương nhẹ, xốp hơn. Khi xuất hiện kim
loại đồng thì mũi tên đồng cũng xuất hiện
sớm nhất và phổ biến hơn cả trong số đồ
đồng giai đoạn văn hóa Đồng Đậu - Gò
Mun. Mũi tên đồng là sự phát triển kế tục
loại hình tên đá ở giai đoạn văn hóa Phùng
Nguyên. Thân tên cũng có hình tam giác
nhưng cạnh đáy không phẳng do hai cạnh
bên được kéo dài xuôi xuống tạo thành hai
cánh cân đối như cánh én. Với hình dáng
mới này, mũi tên đồng có khả năng giảm
lực cản của gió trong khi bay và có sức
xuyên thủng lớn hơn. Nhìn chung mũi tên
đồng nhỏ hơn mũi tên đá, thường có chiều
dài dưới 4cm. Đặc biệt, ở giai đoạn văn hóa
Đông Sơn, mũi tên Cổ Loa có cấu tạo hoàn
chỉnh, sắc bén, chắc chắn, được dân gian ca
ngợi công dụng là “mỗi phát xuyên qua hơn
chục người”. Mũi tên kết hợp với cung
(gồm hai bộ phận: phần cánh cung là một
đường cong và dây cung, có hình chữ D)
thực sự đã tạo thành một loại vũ khí hoàn
chỉnh - vũ khí cung nỏ. Những cung tên
không được cầm trên tay mà được tì xuống
bệ, giá đỡ, được các nhà nghiên cứu coi là
nỏ. So với cung, nỏ có cấu tạo phức tạp
hơn, ở vào trình độ phát triển hơn.
Chính nhờ vào tính thuận tiện mà cung
tên được sử dụng phổ biến hơn lao. Lao
giống tên ở chỗ chỉ sử dụng được một lần
nhưng lại không cơ động, tiện dụng bằng
tên, vì rõ ràng nó cồng kềnh hơn, người ta
chỉ cầm theo người từ 1-2 chiếc chức không
cầm được cả nắm như tên. Vì thế, trong
thực tế chiến đấu, lao được sử dụng không
phổ biến bằng cung tên. Trên trống đồng
Ngọc Lũ, người cầm lao không chỉ cầm một
thứ vũ khí là lao ở tay phải mà tay trái còn
cầm thêm một cây giáo có cán dài. Sau khi
đã phóng lao đi rồi thì chiến binh sẽ chiến
đấu bằng giáo ở tầm gần.
Một biểu hiện khác của yếu tố thNm mỹ
thông qua vũ khí thời Hùng Vương là tính
ưa nhìn, bắt mắt, trang trí đẹp, thiết kế đa
dạng, phong phú, nhiều kiểu loại... Vũ khí
thời kỳ Hùng Vương đa dạng, độc đáo về
loại hình và dồi dào về số lượng. Nó không
chỉ thể hiện trình độ kỹ thuật khá phức tạp,
tinh xảo, chính xác, hoàn hảo, trình độ quân
sự đáng khâm phục của người xưa mà còn
đảm bảo tính thNm mỹ khi những vũ khí đó
được trang trí khá tinh tế. Chẳng hạn như,
trên cán dài của cây giáo có trang trí tua
hoặc lông chim; mũi tên hình cánh én, hình
lao có họng hay có chuôi, loại 3 cánh có
chuôi dài; giáo, lao, dao găm, kiếm, qua, rìu
chiến... cũng được chế tác công phu và giàu
tính thNm mỹ với các loại hoa văn trang trí
đúc nổi. Hay trên các bộ tâm phiến đều có
LêThị Thùy
49
các hoa văn thể hiện những cặp cá sấu - con
vật sống dưới nước, có sức mạnh đặc biệt,
hoặc là hình người chèo thuyền thể hiện lối
sống gắn bó với sông nước của chủ nhân
những tấm hộ phiến này.
Nói tới công cuộc xây dựng và chiến đấu
của người Việt thời kỳ Hùng Vương, chúng
ta không thể bỏ qua công trình mang tính
thNm mỹ tiêu biểu của thời kỳ này và còn
ảnh hưởng đến hậu thế mai sau, đó là thành
Cổ Loa, công trình kiến trúc thNm mỹ của
thời kỳ Hùng Vương. Ngoài việc phản ánh
trình độ quân sự, thành Cổ Loa còn góp
phần phản ánh tư duy thNm mỹ, phù hợp
điều kiện tự nhiên, xã hội. Thành Cổ Loa
được các nhà khảo cổ học đánh giá là tòa
thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu
trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch
sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ.
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi
dụng tối đa và khéo léo các địa hình tự
nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi,
gò, đắp thêm đất cho cao hơn để xây nên
hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai
bức tường thành này có đường nét uốn lượn
theo địa hình chứ không băng theo đường
thẳng như bức tường thành trung tâm. Người
xưa lại xây thành bên cạnh con sông Hoàng
để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành,
vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ hệ
thống hào, vừa là đường thủy quan trọng.
Chiếc Đầm Cả rộng lớn nằm ở phía Đông
cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm
nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất,
sau đó là đá và gốm vỡ.
Hiện trạng thành còn ba vòng (thành nội,
thành trung và thành ngoại), được đắp bằng
đất, mặt ngoài thẳng đứng, mặt trong thoai
thoải để binh lính dễ lên xuống. Chân thành
được kè đá cho vững chắc, các lớp đất đắp
thành được rải gốm chống trượt. Các vòng
hào đều thông với nhau và thông với sông
Hoàng. Sự kết hợp của sông, hào và tường
thành không có hình dạng nhất định, khiến
thành như một mê cung, là một khu quân sự
vừa thuận lợi cho tấn công vừa tốt cho
phòng thủ. Kiến trúc thành lũy mang vẻ uy
nghiêm, bề thế của hoàng gia. Bên cạnh giá
trị về mặt quân sự và mặt xã hội, thành Cổ
Loa còn có giá trị lớn về mặt văn hóa, thNm
mỹ. Cổ Loa trở thành một di sản văn hóa,
một bằng chứng về sự sáng tạo, tinh tế, về
trình độ kỹ thuật cũng như óc thNm mỹ của
người Việt cổ. Đá kè chân thành, gốm rải
rìa thành, hào nước quanh co, ụ lũy phức
tạp, hỏa hồi chắc chắn và nhất là địa hình
hiểm trở ngoằn nghèo, tất cả những điều đó
làm chứng cho nghệ thuật, văn hóa và đời
sống thNm mỹ thời An Dương Vương.
5. Kết luận
Có thể thấy rằng, thông qua khía cạnh đời
sống vật chất của người Việt thời kỳ Hùng
Vương chúng ta đã phần nào thấy được
“trình độ phát triển tương đối cao của thNm
mỹ, nhận thức và ý thức sống” [4, tr.26] của
cư dân thời kỳ này. Đây chính là nền tảng,
cơ sở cho các giá trị thNm mỹ về sau của
dân tộc được phát triển.
Tài liệu tham khảo
[1] Doãn Chính (Chủ biên) (2015), Lịch sử triết
học phương Đông, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
[2] M.F. Ốpxiannhicốp (Chủ biên) (2001), Mỹ học -
cơ bản và nâng cao, Nxb Văn hóa - Thông tin.
[3] Hà Văn Tấn (Chủ biên) (1994), Văn hóa Đông
Sơn ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4] Hà Văn Tấn (Chủ biên) (1999), Khảo cổ học
Việt Nam,t.2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[5] Hà Văn Tấn (2003), Tác phm được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh theo dấu các văn hóa cổ,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
LêThị Thùy
1

File đính kèm:

  • pdfdoi_song_tham_my_cua_nguoi_viet_thoi_ky_hung_vuong.pdf