Khảo sát và đánh giá chất lượng thức ăn ương nuôi tôm giống nước lợ tại đồng bằng sông Cửu Long
Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá thực trạng chất lượng của các loại thức ăn ương nuôi
tôm giống nước lợ. Các thức ăn cho ương nuôi tôm giống được sử dụng phổ biến hiện nay đáp ứng
cho từng giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm bao gồm: Artemia, luân trùng và các loại thức ăn tổng
hợp. Trong đó, thức ăn tổng hợp hầu hết đều được nhập khẩu từ các nước Mỹ, Nhật, Thái Lan, Đài
Loan, Trung Quốc với hơn 25 công ty thương mại nhập khẩu mặt hàng này. Thức ăn tổng hợp cho
ương nuôi tôm giống ở 3 giai đoạn zoea, mysis và post-larvae có thành phần protein thô (42-58%);
lipid thô (7-16%); tro (5-14%) và xơ (< 3%).="" đối="" với="" các="" chỉ="" tiêu="" an="" toàn="" vệ="" sinh="" vật="" nuôi,="" kết="">
khảo sát cho thấy các loại thức ăn này không chứa hàm lượng aflatoxin, salmonella và E.coli, hàm
lượng ethoxiquin có kết quả 0 - 40mg/kg, đáp ứng quy định an toàn thức ăn nuôi tôm (theo QCVN
02-31-1:2019/BNNPTNT), đạt tiêu chí chất lượng dùng trong ương nuôi tôm giống nước lợ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát và đánh giá chất lượng thức ăn ương nuôi tôm giống nước lợ tại đồng bằng sông Cửu Long
à ctv., 1979). Chen và Tsai (1986) đã chỉ ra rằng ấu trùng tôm sú yêu cầu hàm lượng axit béo không no đa nối đôi (highly unsaturated fatty acids – HUFA) trong khoảng 0,5-1% trong thức ăn. Hình 3. Thành phần một số acid béo trong một mẫu thức ăn (Frippak Fresh #1 CAR - Inve) cho ấu trùng tôm giai đoạn Mysis. Theo như Hình 3, thành phần HUFA trong thức ăn chiếm khoảng 40 mg/g trọng lượng lipid thô (chiếm khoảng 24% trong thành phần béo), đây là một thành phần rất quan trọng nhằm cung cấp axít béo không no cho ấu trùng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Rees và ctv., (1994), tỉ lệ sống và khả năng chịu đựng stress của ấu trùng tôm sú được cải thiện rõ ràng khi ăn thức ăn giàu hàm lượng HUFA (12 -42 mg/g trọng lượng lipid khô). Ngoài ra, cholesterol là một vật chất khác của lipid đóng vai trò quan trọng trong sinh trưởng, phát triển và tồn tại của tôm (Kanazawa và ctv., 1971). Shudo và ctv., (1971) cho rằng tôm he Nhật Bản thể hiện tăng trưởng tốt khi cho ăn thức ăn chứa 0,2% cholesterol, tốt nhất khi cho ăn thức ăn chứa 2,1% cholesterol (Deshimaru và Kuroki, 1974b). Tôm sú sinh trưởng tốt khi cho ăn thức ăn chứa 0,5% cholesterol (Chen và ctv., 1993). Bên cạnh cholesterol, nhu cầu phospholipids của tôm cũng thay đổi theo loài và giai đoạn phát triển. Nhìn chung, tôm sú có nhu cầu khoảng 1,25% phospholipids trong thức ăn (Chen và Jenn, 1991; Chen và ctv., 1993). Hàm lượng khoáng Hàm lượng tro trong thức ăn bao gồm các loại khoáng đa lượng và vi lượng. Từ kết quả của Bảng 1, 2 và 3 cho thấy hàm lượng tro thô trong các mẫu thức ăn luôn nhỏ hơn 15%. Thức ăn tôm giống hiệu Frippak Fresh #3 CD cho hàm lượng tro thô cao nhất, đạt 14,98%, trong khi thức ăn tôm giống hiệu Long Sinh Flake cho hàm lượng tro thấp nhất đạt 2,49%. Bên cạnh đó, thức ăn tôm giống hiệu Frippak Fresh, P. monodon, P. vannamei P, japonicus, Brine Shrimp Flakes- Petrel Brand, V-King Flakes, Crumble Feed For Juvenile Kuruma Shrimp OC, thức ăn cho ấu trùng tôm giai đoạn Zoea TNT1 – Post Larvae TNT4, LSC Microencapsulated Feeds và Micro Elite cho hàm lượng tro lớn hơn 10%. Các mẫu thức ăn tôm giống còn lại cho hàm lượng tro thô dao động từ 2,52-9,91%. Đối với động vật, hiện nay, người ta xác định có 6 nguyên tố khoáng đa lượng (Ca, 47TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Mg, P, Na, K và Cl) và 16 nguyên tố vi lượng là (As, Cr, Co, Cu, I, F, Fe, Mn, Mo, Ni, Se, S, Si, Sn, Zn và V) là cần thiết cho cơ thể động vật. Các khoáng chất tham gia thành phần cấu tạo của cơ thể, khung cơ thể và là chất xúc tác cho phản ứng sinh hoá (Lê Đức Ngoan và ctv., 2009). Duy trì chức năng sinh lý thể hiện ở những muối kiềm ảnh hưởng đến sự cân bằng acid và baze góp phần việc ổn định nồng độ thẩm thấu cơ thể cũng như duy trì sự cân bằng nước (Jones và ctv., 1987). Dẫn truyền thần kinh và một số nguyên tố là thành phần cấu tạo một số hormone như iodine trong thyroxine giúp cơ thể thích ứng điều kiện bên trong và bên ngoài. Hàm lượng xơ Hàm lượng xơ thô trong các mẫu thức ăn cho tôm giống luôn nhỏ hơn 2,5% trong các mẫu khảo sát. Thức ăn tôm giống hiệu Top Bucket Shrimp Flake, Top Bucket Shrimp Flake, Crumble Feed For Juvenile Kuruma Shrimp 0C, Encap Microencapsulated, Winner Flakes và Top - Bagged Shrimp Flake cho hàm lượng xơ dao động từ 2,03-2,10%. Các mẫu thức ăn còn lại cho hàm lượng xơ luôn nhỏ hơn 2% trong đó nhỏ nhất là thức ăn hiệu Larva Esencial với hàm lượng xơ thô 0,15%. Hàm lượng ethoxyquin Tất cả các loại thức ăn khảo sát đều chứa hàm lượng ethoxiquin từ 0-40 mg/kg thức ăn (Hình 4). Bởi vì các loại thức ăn khảo sát chủ yếu là hàng nhập khẩu có hàm lượng chất béo cao và chứa nhiều acid béo cao phân tử không no nên dễ bị oxy hóa trong quá trình chế biến và bảo quản. Khi bị oxy hóa thức ăn sẽ hôi dầu, mất đi các acid béo thiết yếu, các vitamin tan trong dầu cũng như phá hủy các carotenoids làm giảm chất lượng thức ăn. Chính vì vậy các nhà sản xuất thức ăn thường bổ sung ethoxyquin vào thức ăn tổng hợp với hàm lượng cho phép để chống oxy hóa. Hoa Kỳ cho phép sử dụng ethoxyquin trong thức ăn chăn nuôi với hàm lượng tối đa là 150 ppm (FDA, 21 CFR 573.380). Ủy ban Châu Âu cho phép sử dụng ethoxyquin trong thức ăn chăn nuôi như là chất chống oxy hóa với mức dư lượng tối đa là 150 ppm (Commission Regulation (EC) No.2316/98). Tổng cục Thủy sản Việt Nam đã thông báo và yêu cầu các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã đăng ký lưu hành sản phẩm thức ăn thủy sản có chứa thành phần ethoxyquin công bố về thành phần và hàm lượng ethoxyquin trên nhãn sản phẩm theo quy định của theo QCVN 02-31-1:2019/BNNPTNT. Hình 4. Hàm lượng ethoxyquin của một số loại thức ăn ương nuôi tôm giống. 48 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hàm lượng độc tố aflatoxin Kết quả phân tích tổng hàm lượng độc tố aflatoxin ở tất cả các mẫu thức ăn tổng hợp ương nuôi ấu trùng tôm đều không thấy phát hiện. Như vậy kết quả phân tích cho thấy các loại thức ăn tổng hợp này hoàn toàn đáp ứng tiêu chí vệ sinh và an toàn thực phẩm. Độc tố nấm mốc aflatoxin là một trong những yếu tố gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe vật nuôi nói chung và thủy sản nói riêng. Sahoo và ctv., (2001) đã chỉ ra rằng aflatoxin là nhân tố tiềm tàng gây sự suy giảm miễn dịch ở cá chép. Boonyaratpalin và ctv., (2001) nghiên cứu ảnh hưởng của aflatoxin B1 lên sinh trưởng và khả năng miễn dịch của tôm sú đã kết luận rằng tốc độ tăng trưởng của tôm giảm mạnh khi ăn thức ăn có chứa 50-100 ppb. Tuy nhiên, thức ăn chứa hàm lượng aflatoxin ở nồng độ này không gây ảnh hưởng lên tỉ lệ sống của tôm. Các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh Khi phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh (Salmonella, E. coli) trong các loại thức ăn khảo sát ở trên. Nhìn chung, tất cả các sản phẩm đều có kết quả âm tính với những chủng vi sinh vật gây bệnh này. IV. KẾT LUẬN Hiện nay trên thị trường đang lưu hành nhiều loại thức ăn cho ương nuôi tôm ấu trùng có nguồn gốc từ Mỹ, Nhật, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc. Thành phần dinh dưỡng của một số loại thức ăn được khảo sát có hàm lượng protein (42-58%), lipid thô (7-16%), hàm lượng tro (5-14%), hàm lượng xơ (<3%) và độ ẩm nhỏ hơn 8%. Đối với hàm lượng ethoxyquin, kết quả phân tích cho thấy các mẫu thức ăn chứa từ 0-40 mg/kg ethoxyquin. Các thức ăn cho ương nuôi tôm ấu trùng đã khảo sát không có sự hiện diện của các vi sinh vật gây bệnh (Salmonella, E. coli). Nhìn chung các thức ăn cho ương nuôi tôm giống có chất lượng đảm bảo, cần chú ý hàm lượng ethoxyquin trong thức ăn, đáp ứng sự phù hợp với quy định của Châu Âu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Lê Đức Ngoan, Vũ Duy Giảng, Ngô Hữu Toàn, 2009. Giáo trình dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội - Trường Đại học Nông Lâm Huế. Tổng cục Thống kê, 2017. Tình hình kinh tế - xã hội năm 2017, https://www.gso.gov.vn/default. aspx?tabid=621&ItemID=18668 Tổng cục Thống kê, 2018. Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2018, https://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=38 2&ItemID=19036&fbclid=IwAR2138KqtFBo- toarlOhUYWjLgIRLmAkJ6C2VtRb9V_IK1- XFxPytUkw63U Trung tâm Khuyến nông Ninh Thuận, 2019. Tôm giống Ninh Thuận khẳng định thương hiệu số 1 cả nước, sonnnt/Pages/Tom-giong-Ninh-Thuan-khang- dinh-thuong-hieu-so-1-ca-nuoc.aspx Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, 2019. NT-Tầm quan trọng của chất lượng thức ăn trong sản xuất giống tôm sú chất lượng, Nông Dân, http:// nongdan.com.vn/kien-thuc-ky-thuat/nt-tam- quan-trong-cua-chat-luong-thuc-an-trong-san- xuat-giong-tom-su-chat-luong-7094.html. Trương Gia Phong, 2015. com.vn/dinh-duong-thuc-an-au-trung-tom- article-12609.tsvn. Tài liệu tiếng Anh Apt, K.E., and Behrens, P.W., 1999. Commercial developments in microalgal biotechnology. Journal of phycology, 35(2), pp.215-226 Akio Kanazawa, 1984. Nutrition of Penaeid Prawns and Shrimps. Proceedings of the First International Conference on the Culture of Penaeid Prawns/Shrimps. 123-130. Bengtson, D.A., Léger, P., & Sorgeloos, P., 1991. Use of Artemia as a food source for aquaculture. Artemia biology, 11, 255-285. Boonyaratpalin, M., Supamattaya, K., Verakunpiriya, V., and Suprasert, D., 2001. Effects of aflatoxin B1 on growth performance, blood components, immune function and histopathological changes in black tiger shrimp (Penaeus monodon Fabricius). Aquaculture Research, 32, 388-398. 49TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II B. Neelakantan, A.S., Rafiuddin, N.R., Ratish Menon and N. Kusuma, 1988. Importance of live feed organisms in prawn hatcheries - a Review. Journal of the Indian Fisheries Association, 18, 47-67. Brown, M.R., 2002. Nutritional value and use of microalgae in aquaculture. Avances en Nutrición Acuícola VI. Memorias del VI Simposium Internacional de Nutrición Acuícola, 3, pp.281- 292. Chen, H.Y., and Tsai, R.H., 1986. The dietary effectiveness of Artemia nauplii and microencapsulated food for postlarval Penaeus monodon. Research and development of aquatic animal feed in Taiwan. FST Monogr. Ser, 5, 73- 79. Chen, H.Y., and Jenn, J.S., 1991. Combined effects of dietary phosphatidylcholine and cholesterol on the growth, survival and body lipid composition of marine shrimp, Penaeus penicillatus. Aquaculture, 96, 167-178. Chen, H.Y., 1993. Requirements of marine shrimp, Penaeus monodon, juveniles for phosphatidylcholine and cholesterol. Aquaculture, 109, 165-176. Chorong Lee and Kyeong-Jun Lee, 2018. Dietary protein requirement of Pacific white shrimp Litopenaeus vannamei in three different growth stages. Fisheries and Aquatic Sciences, 21, 30, 1-6. Coloso, R.M., and Cruz, L.J., 1980. Preliminary studies in some aspects of amino acid biosynthesis in juveniles of Penaeus monodon Fabricius: I. Incorporation of 14C from (U-14C) acetate into amino acids to precipitable proteins. Bulletin of the Philippine Biochemistry Society, 3, 12-22. Colvin, L.B., and Brand, C.W., 1977. The protein requirement of penaeid shrimp at various life‐ cycle stages in controlled environment systems. In Proceedings of the annual meeting‐World Mariculture Society. Oxford, UK: Blackwell Publishing Ltd, 8, 821-840. Dall, W.H.B.J., Hill, B.J., Rothlisberg, P.C., & Sharples, D.J., 1990. The biology of the Penaeidae. The biology of the Penaeidae., p27. Deshimaru, O., and Kuroki, K., 1974. Studies on a purified diet for prawn. 2. Optimum contents of cholesterol and glucosamine in the diet. Bulletin of the Japanese Society of Scientific Fisheries, 40, 421-424. Kanazawa, A., Teshima, S., Tokiwa, S., Endo, M., and Abdel Razek, F.A., 1979. Essential fatty acids in the diet of prawn: II. Effect of docosahexaenoic acid on growth. Bull. Jpn. Soc. Sci. Fish. 45, 1151-1153. Kanazawa, A., and Teshima, S.I., 1981. Essential amino acids of the prawn. Bulletin of the Japanese Society of Scientific Fisheries, 47, 1375-1377. Léger, P., Bengtson, D.A., Sorgeloos, P., Simpson, K.L., & Beck, A.D., 1987. The nutritional value of Artemia: a review. Artemia research and its applications, 3, 357-372. Lee, D.L., 1971. Studies on the protein utilization related to growth of Penaeus monodon Fabricius. Aquaculture, 1(4), 1-13. Lim, L.C., Soh, A., Dhert, P., & Sorgeloos, P., 2001. Production and application of on‐grown Artemia in freshwater ornamental fish farm. Aquaculture Economics & Management, 5(3-4), 211-228. Shiau, S.Y., 1998. Nutrient requirements of penaeid shrimps. Aquaculture, 164(1-4), 77-93. Jamali, H., Ahmadifard, N. and Abdollahi, D., 2015. Evaluation of growth, survival and body composition of larval white shrimp (Litopenaeus vannamei) fed the combination of three types of algae. International Aquatic Research, 7(2), pp.115-122. Jones, D.A., Kurmaly, K., & Arshard, A.,1987. Penaeid shrimp hatchery trials using microencapsulated diets. Aquaculture, 64, 133- 146. Sargent, J.R., Bell, J.G., Bell, M.V., Henderson, R.J. and Tocher, D.R., 1993. The metabolism of phospholipids and polyunsaturated fatty acids in fish. Coastal and Estuarine Studies, 103–124. Shudo, K., 1971. Studies on formula feed for Kuruma prawn-IV. On the growth-promoting effects on both squid liver oil and cholesterol. Bull. Tokai Reg. Fish. Res. La., 65, 129-137. Sorgeloos, P., Coutteau, P., Dhert, P., Merchie, G., & Lavens, P., 1998. Use of brine shrimp, Artemia spp., in larval crustacean nutrition: a review. Reviews in fisheries science, 6(1-2), 55-68. Watanabe, T., Arakawa, T., Kitajima, C., & Fujita, S., 1978. Nutritional evaluation of proteins of living feeds used in seed production of fish. Bulletin of the Japanese society of scientific fisheries (Japan). Wood, B.J.B., 1974. Fatty acids and saponifiable lipids. In Algal physiology and biochemistry (Vol. 10, pp. 236-265). Blackwell Oxford. 50 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II FEED QUALITY FOR NURSERY STAGE OF BRACKISHWATER SHRIMP IN THE MEKONG DELTA Pham Duy Hai1*, Vo Thi Quynh Nhu1, Nguyen Quoc Cuong1, Ly Huu Toan1, Le Thi Lam1, Nguyen Van Nguyen1 ABSTRACT The present study focused on investigating the current quality of shrimp feeds for nursing brackish- water shrimp in the Mekong Delta. Various types of shrimp feed for nursing stage of marine shrimps including artemia, rotifer, and artificial feeds were examined. The surveyed results indicated that most of the feeds for the cultivation of the early larval stages of shrimp have accounted for over 25 imported companies and sourced from the USA, Japan, Thailand, Taiwan, and China. Feed quality analysis showed that artificial feeds for rearing shrimp in three developmental stages including zoea, mysis, and post-larvae stages had high protein (42-58%), crude lipid (7-16%), ash content (5- 14%), and low fiber content (< 3%). In terms of feed safety, the results showed that the examined feeds contained no aflatoxin, Salmonella, E.coli., and rather low ethoxyquin content (0 - 40mg/kg), which are compliant with the Vietnamese national standard for shrimp feed (QCVN 02-31-1:2019/ BNNPTNT) and meet the criteria of quality and feed safety for cultivating shrimp. Keywords: feed, lipid, protein, shrimp larvae. Người phản biện: TS. La Xuân Thảo Ngày nhận bài: 02/12/2019 Ngày thông qua phản biện: 10/2/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 Người phản biện: TS. Châu Thi Đa Ngày nhận bài: 02/12/2019 Ngày thông qua phản biện: 12/5/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: duyhaipp@gmail.com
File đính kèm:
- khao_sat_va_danh_gia_chat_luong_thuc_an_uong_nuoi_tom_giong.pdf