Khảo sát hiện trạng thành phần loài thủy sản và dự báo các ảnh hưởng của công trình ngăn mặn đến nguồn lợi thủy sản bắc Bến Tre
TÓM TẮT
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng, điển hình là vấn đề ngập lụt và xâm nhập mặn có ảnh hưởng
rất lớn đến hoạt động canh tác nông nghiệp, thủy sản và đời sống của cộng đồng. Hiện nay, Bến Tre
đang tiến hành chuẩn bị triển khai dự án xây dựng các công trình thủy lợi ngăn mặn cho toàn khu
vực Bắc Bến Tre. Nghiên cứu và đánh giá tác động của các công trình ngăn mặn dự án Thủy lợi
Bắc Bến Tre đến nguồn lợi thủy sản để phục vụ cho phát triển bền vững được thực hiện từ tháng
4/2015 đến 4/2016 tại 20 trạm khảo sát với 26 ngư dân tham gia quan trắc thành phần loài và sản
lượng khai thác hàng ngày, kết hợp với việc thu mẫu định kỳ hàng tháng qua 5 loại ngư cụ khai thác
thủy sản phổ biến ở địa phương. Kết quả khảo sát cho thấy hiện trạng thành phần loài thủy sản ở
địa phương rất đa dạng và phong phú với 253 loài cá được xác định trong đó có 188 loài được định
danh từ thu mẫu và 178 loài từ việc theo dõi ghi chép của ngư dân. Bên cạnh đó, có 30 loài động
vật thủy sản khác cũng được xác định như tôm, cua, ốc hến và mực. Họ cá chép và họ cá bống có
tỉ lệ thành phần loài cao nhất với lần lượt là 17,8% và 13% tổng số loài. Thành phần loài cá được
chia làm 3 nhóm: nhóm cá nước ngọt xuất hiện vào mùa lũ (tháng 7-12) gồm Cyprinidae, Siluridae,
Pangasidae, Notopteridae, Botidae, Cobiidae, Anabantidae, Channidae, Osphronemidae , nhóm
cá nước mặn xuất hiện vào mùa khô (tháng 1-5) gồm Clupeidae, Engraulidae, Leiognathidae, Lutjanidae , và nhóm cá nước lợ xuất hiện quanh năm gồm Gobiidae, Mugillidae, Polynemidae
Cá cháy bẹ (Tenualosa thibaudeaui) nằm trong danh sách đỏ cũng được tìm thấy trong nghiên cứu
này. Hầu hết các loài cá thu được trong giai đoạn thành thục sinh dục đều ở giai đoạn 1 – 3. Điều
này cho thấy vùng dự án Bắc Bến Tre không phải là vùng sinh sản tập trung của các loài cá. Việc đề
xuất xây dựng các cống, đê ngăn mặn trong khu vực dự án chưa cho thấy những tác động nghiêm
trọng đến nguồn lợi thủy sản, sự đa dạng của khu hệ cá ở ĐBSCL, nhưng sự thay đổi của môi trường
nước lợ thành môi trường nước ngọt sẽ ảnh hưởng đến các loài cá biển và cá nước lợ do mất môi
trường sống của chúng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát hiện trạng thành phần loài thủy sản và dự báo các ảnh hưởng của công trình ngăn mặn đến nguồn lợi thủy sản bắc Bến Tre
u này có thể xảy ra trong giai đoạn triều thấp khi lưu lượng nước ngọt chiếm ưu thế. Bên cạnh đó, họ cá da trơn (Pangasiidae) cũng đã được lấy mẫu tại ba môi trường sinh thái, trong đó tần số cao nhất của sự xuất hiện là vùng nước lợ: 83 lần trong mùa mưa và 68 lần vào mùa khô nhưng chỉ duy nhất 2-4 lần trong các vùng sinh thái khác trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Ngoài ra, có năm họ cá xuất hiện trong vùng nước ngọt như Akysidae (9 lần), Callionymidae (23 lần), Helostomatidae (1 lần), Siluridae (6 lần) và Trichonotidae (1 lần). Ba họ cá xuất hiện ở vùng nước lợ như Moringuidae (1 lần), Notopteridae (1 lần), và Pristolepididae (6 lần). Ba họ cá xuất hiện ở vùng nước mặn như Chanidae (1 lần), Megalopidae (2 lần), và Serranidae (2 lần). Đặc biệt, có một loài nguy cấp cá cháy (Tenualosa thibaudeaui) (VU) được tìm thấy trong ba vùng sinh thái, trong đó xuất hiện phổ biến nhất ở khu vực nước lợ (21 lần) nhưng ít hơn ở vùng nước mặn (8 lần) và vùng nước ngọt (2 lần). Như đã đề cập ở trên, loài này chủ yếu là di cư theo mùa trong dòng chính. 73TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.3. Chiều dài và trọng lượng cá Cấu trúc về chiều dài và trọng lượng cá được thu mẫu tại 3 vùng sinh thái được thể hiện trong Bảng 4. Bảng 4: Cấu trúc chiều dài và trọng lượng của 10 loài cá cao nhất trong vùng khảo sát TT Loài Chiều dài (cm) Trọng lượng (gram) Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình 1 Pisodonophis boro 81 6,7 45 ± 15 187,8 2,1 41,1 ± 33,6 2 Gymnothorax sp. 80,2 18 30 ± 15 106,7 5,7 32,4 ± 31,0 3 Doryichthys boaja 65,3 7,2 22, ± 6,9 197,5 0,8 14,1 ± 23,5 4 Muraenesox bagio 44,5 22 28, ± 6,5 164,7 10,4 40,0 ± 45,5 5 Eleutheronema tetradactylum 41,3 5,4 11, ± 4,6 223,3 2 27,3 ± 34,7 6 Mastacembelus favus 40,5 6,6 16, ± 11, 210,5 0,9 36,9 ± 76,7 7 Neoconger sp. 40,5 40,5 40,5 ± 00 49,5 49,5 49,5 ± 0 8 Ophisternon bengalense 40 16,2 26, ± 5,8 59,4 3,8 20,1 ± 14,4 9 Lepturacanthus savala 38,5 21,3 28, ± 8,7 53,3 3,6 18,0 ± 23,5 10 Arius maculatus 37 3,8 10, ± 5,4 545,1 0,8 48,5 ± 80,3 Bảng 4 cho thấy rằng hầu hết các loài cá là loài cá nhỏ. Mức trung bình của chiều dài là 6,5 ± 01 cm và trung bình của trọng lượng là 33,7 ± 84,6 gam. Điều này chỉ ra rằng khu vực dự án đã đề xuất có thể là một vùng sinh trưởng cho các loài cá nước mặn và nước lợ phổ biến ở ĐBSCL. 3.4. Sự thành thục của cá Các giai đoạn phát triển và sự thành thục của cá được thể hiện trong Bảng 5: Bảng 5: Các giai đoạn phát triển của tuyến sinh dục của 10 loài cá phổ biến TT Loài GĐ 0 GĐ 1 GĐ 2 GĐ 3 GĐ 4 GĐ 5 GĐ 6 1 Doryichthys boaja 25 3 2 1 6 9 2 Butis butis 23 4 5 7 2 3 3 Rasbora aurotaenia 63 12 33 33 9 1 4 Oligolepis acutipennis 32 6 13 10 1 5 Butis humeralis 34 4 13 9 3 2 6 Eleotris melanosoma 47 13 22 18 3 2 7 Oxyeleotris urophthalmus 33 5 12 11 1 1 8 Chelon subviridis 61 2 1 2 1 9 Clupeoides borneensis 52 2 3 6 1 1 10 Periophthalmodon schlosseri 14 1 1 1 1 Ghi chú: GĐ (Giai đoạn) Tuyến sinh dục 0: Không trưởng thành; Tuyến sinh dục 1: chưa trưởng thành; Tuyến sinh dục 2: Phát triển; Tuyến sinh dục 3: Trưởng thành; Tuyến sinh dục 4: chín; Tuyến sinh dục 5: Đang đẻ; Tuyến sinh dục 6: Đã đẻ xong. 74 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 5 cho thấy rằng hầu hết các loài cá được lấy mẫu là cá nhỏ với tuyến sinh dục từ giai đoạn 1 (21,8%) đến giai đoạn 3 (32,9%), riêng chỉ có loài cá ngưa xương (Doryichthys boaja) được tìm thấy ở giai đoạn 5 & 6, và các họ Gobiidae và Cyprinidae được tìm thấy phổ biến ở giai đoạn 2 -3. Điều này cho thấy rằng khu vực dự án Bắc Bến Tre không là vùng sinh sản chính của loài cá ở ĐBSCL. 3.5. Loài nguy cấp Thành phần loài cá ở vùng ĐBSCL rất đa dạng và phong phú với 255 loài cá (Mai Đình Yên và Nguyễn Văn Trọng, 1985) vì đa dạng loại hình thủy vực như hệ thống sông kênh rạch dày đặc, vùng đồng bằng ngập lũ, vùng cửa sông và ven biển. Một số nghiên cứu gần đây ở vùng ĐBSCL đã miêu tả chi tiết được hơn 360 loài và danh sách của 461 loài ở vùng ĐBSCL (Vidthayanon, 2008). Bên cạnh đó, Tran và ctv,. (2013) đã miêu tả chi tiết 322 loài cá ở vùng ĐBSCL và nhiều loài cá khác đang được kiểm tra và chuẩn bị công bố. Đáng chú ý là tổng số loài cá ở hệ thống sông Mê Công ước tính khoảng 1.200 loài, trong đó số loài ở vùng đồng bằng Campuchia đạt gần 500 loài (Rainboth, 1995). Dựa trên thành phần loài từ nghiên cứu này (bảng 1) và tiêu chí là các loài đang bị đe dọa trong các chuyên mục của IUCN cho cá sông Mê Công, nghiên cứu này đã xác định 1 loài có nguy cơ tuyệt chủng tại đã bắt gặp trong quá trình nghiên cứu tại tỉnh Bến Tre đó là cá cháy (Tenualosa thibaudeaui). Các đặc điểm của Tenualosa thibaudeaui được cho thấy ở Bảng 6. Bảng 6: Các đặc điểm của cá cháy tại Bắc Bến Tre Vùng sinh thái Mùa Giai đọan phát triển Giai đoạn trứng Số cá thể Trọng lượng (gram) Chiều dài (cm) Max Min Max Min Vùng nước ngọt Khô Cá con, trưởng thành 0 68 89,0 1,4 15 4,3 Vùng nước lợ Khô Cá con, trưởng thành 0 3 9,9 2,8 8,3 5,7 Vùng nước mặn Khô Cá con, trưởng thành 0 28 43,6 4,8 17,3 7,9 Hình 3: Cá cháy (Tenualosa thibaudeaui) được thu mẫu ở Bến Tre Mặc dù, chúng tôi đã thu được mẫu cá cháy và ghi nhận ở ba môi trường sống khác nhau của tỉnh Bến Tre nhưng loài này là loài di cư chủ yếu là dòng chính của sông Mê Công. Chúng đẻ trứng vào đầu mùa mưa (chủ yếu trong tháng 6) ở thượng nguồn. Trứng và ấu trùng được đưa vào vùng ngập do nước dâng cao. Cá con và cá trưởng thành sử dụng dinh dưỡng tự nhiên ở vùng ngập. Trong nghiên cứu này, có một số cá thể được ghi nhận phía bên trong cống với kích thước nhỏ (5,7-8,3 cm) và số lượng cá đánh bắt được rất thấp, chỉ có 3 cá thể. Điều đó cho thấy sự xuất hiện của cá cháy ở dòng nhánh là sự di cư ngẫu nhiên. Vì vậy, chúng có lẽ không thể bị ảnh hưởng về việc xây dựng cống mặn ở dòng nhánh vì chúng chủ yếu là di cư trên dòng chính. Do vậy, các cống, đê xây dựng đề xuất trong khu vực dự án không có tác động nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản về sự đa dạng của khu hệ cá ở ĐBSCL, nhưng sự thay đổi của môi trường nước lợ thành môi trường nước ngọt sẽ ảnh hưởng đến một số loài cá nước mặn và cá nước lợ do mất môi trường sống của chúng. 75TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 4: Vùng phân bố của cá cháy nam (Tenualosa thibaudeaui) Nguồn: Poulsen et al., (2004) Chúng di cư lên thượng nguồn để sinh sản, sau đó cá bột và cá con trôi dạt xuôi dòng xuống hạ nguồn và sinh trưởng ở vùng đồng bặt ngập lụt gần hệ thống sông Mê Công như vùng ngập lụt ở vùng ĐBSCL của Việt Nam, Campuchia và Thái Lan (Poulsen et al., 2004). Thực tế cho thấy cá cháy nam phân bố khá nhiều ở vùng cửa sông ven biển. Trong thời gian nghiên cứu của đề tài đã xác định được 170 cá thể chỉ ở vị trí nghiên cứu vùng ven biển (điểm #9 và #11), không ghi nhận bất kỳ cá thể nào ở các vị trí nghiên cứu khác của đề tài. Trong khi đó, các vị trí đề xuất xây dựng cống điều tiết của dự án lại tập trung ở dòng nhánh trong vùng nước ngọt. Do đó, tác động được đánh giá là khá thấp. Tuy nhiên,việc vận hành hệ thống sau này cũng cần được xem xét để cho phép chúng di cư. V. KẾT LUẬN Tổng cộng có 253 loài cá được xác định trên vùng dự án Bắc Bến Tre. Trong đó, có 188 loài được xác định thông qua các hoạt động lấy mẫu và 178 loài được xác định bằng cách ghi sổ nhật ký của ngư dân. Các loài cá ở Bến Tre có thể được phân loại thành ba nhóm: (i) các loài cá nước ngọt phổ IV. THẢO LUẬN Loài quý hiếm có tính di cư cao gồm: cá bông lau (Pangasius krempfi), cá cháy nam (Tenualosa thibaudeaui), cá duồng (Cirrhinus microlepis). Nhìn chung tác động của các công trình làm ngăn cản đường di cư đối với nhóm cá này ở mức rất cao, đặc biệt là đối với các công trình thủy điện thủy lợi trên dòng chính. Di cư là một đặc trưng quan trọng của cá vùng ĐBSCL. Sự di cư này có mối liên hệ mật thiết đến chế độ thủy văn sông Mê Công. Hầu hết các loài cá tham gia di cư lên thượng nguồn để sinh sản vào đầu mùa mưa (tháng 4 – 6), khi đó mực nước và lưu lượng nước bắt đầu tăng lên. Trong khi đó, vào cuối mùa mưa (tháng 11 – 12) khi mực nước và lưu lượng nước giảm xuống thì các loài cá di cư ngược ra hệ thống sông kênh rạch. Cá cháy nam (Tenualosa thibaudeaui) là loài có tính di cư cao. Vùng phân bố chủ yếu ở vùng Hạ lưu sông Mê Công, chúng có thể di cư lên tới vùng thượng lưu của sông Mê Công (Poulsen et al., 2004). 76 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II biến được ghi nhận trong mùa lũ (tháng 7-12), bao gồm Cyprinidae, Silruidae, Pangasidae, Notopteridae, Botidae, Cobiidae, Anabantidae, Channidae, Osphronemidae, .... ; (ii) các loài cá nước mặn phổ biến trong mùa khô (tháng 1-5) như: họ Clupeidae, Engraulidae, Leiognathidae, Lutjanidae, ......, và (iii) cá nước lợ được tìm thấy trong cả năm: Gobiidae, Mugillidae, Polynemidae, ... . Một số loài cá di cư đường dài loài như cá cháy (Tenualosa thibaudeaui), cá bông lao (Pangasius krempfi) di chuyển từ biển lên thượng nguồn để đẻ trứng; và tôm càng xanh (Macrbrachium rosenbergii) di chuyển từ khu vực nước ngọt ở Campuchia và ĐBSCL đến các cửa sông để đẻ trứng. Trong số đó, cá cháy (Tenualosa thibaudeaui) được coi là loài đang bị đe dọa trong „danh sách đỏ“ theo IUCN. Tuy nhiên, loài này chủ yếu phân bố trong dòng chính, do đó, nó có thể không bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các công trình xây dựng cho việc ngăn nước mặn ở tỉnh Bến Tre. Hầu hết các loài cá được lấy mẫu trong vùng dự án trong thời gian khảo sát là ở giai đoạn còn non với kích thước nhỏ, tuyến sinh dục của chúng là từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 3. Điều này chỉ ra rằng khu vực Bắc Bến Tre là vùng dinh dưỡng cho các loài cá nước lợ và cá nước mặn ở ĐBSCL, không phải là vùng sinh sản của chúng. Vì vậy, các cống, đê xây dựng đề xuất trong khu vực dự án chưa cho thấy những tác động nghiêm trọng đến nguồn lợi thủy sản về sự đa dạng của khu hệ cá trong ĐBSCL, nhưng sự thay đổi của môi trường nước lợ và nước mặn thành môi trường nước ngọt sẽ ảnh hưởng đến các loài cá biển và các loài cá nước lợ do mất môi trường sống bình thường của chúng. Tất nhiên, sự đa dạng của các nguồn tài nguyên cá bên trong cống được đề nghị sẽ ít hơn do thay đổi chất lượng nước và hạn chế di cư. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Mai Đình Yên & Nguyễn Văn Trọng , 1995. Định loại cá nước ngọt ở miền Nam Việt Nam. Báo cáo khoa học, Viện NC NTTS2, Tp. Hồ Chí Minh. Tài liệu tiếng Anh Baran, E., 2006. Fish migration triggers in the Lower Mekong Basin and other tropical freshwater systems. MRC Technical Paper No. 14, Mekong River Commission, Vientiane. 56 pp. Hogan, Z., Baird, I.G., Radtke, R., and Vander Zanden,M.J. , 2007. Long distance migration and marine habitation in the tropical Asian catfish, Pangasius krempfi. Journal of Fish Biology (2007) 71, 818–832. Rainboth, W. J. , 1996. Fishes of the Cambodian Mekong. FAO species indentification field guide for fishery purpose. Rome, 265pp. Tran, D.D., K. Shibukawa, P.T. Nguyen, H.P. Ha, L.X. Tran, H.V. Mai, and K. Utsugi , 2013. Fishes of the Mekong Delta, Viet Nam. Can Tho University Publishing House, Can Tho, 174 pages. Vidthayanon, C. , 2008. Field guilde to fishes of the Mekong Delta. Mekong River Commission, Vientiane, 288pp. Poulsen, A.F., K.G. Hortle, J. Valbo-Jorgensen, S. Chan, C.K.Chhuon, S. Viravong, K. Bouakhamvongsa, U. Suntornratana, N. Yoorong, T.T. Nguyen and B.Q. Tran (2004) Distribution and Ecology of Some Important Riverine Fish Species of the Mekong River Basin. MRC Technical Paper No. 10. ISSN: 1683-1489. 77TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II SURVEY OF SPECIES COMPOSITION AND EFFECT FORECAST OF SALINITY PREVENT IRRIGATION TO AQUATIC RESOURCES AT NORTH BEN TRE Nguyen Nguyen Du1*, Nguyen Van Phung1, Vu Vi An1, Nguyen Van Trong1 ABSTRACT Climate change and rising sea levels, a problem typical flooding and seawater intrusion has greatly affected agricultural activities, fisheries and community life. Currently, Ben Tre province is ongoing to prepare the construction of saline prevent irrigation project at northern part of Ben Tre. Study and evaluate the impact of this project to fishery resources to serve sustainable development was carried out from April 2015 to April 2016 at 20 survey stations with 26 fishermen participating and monitoring of species daily catches, combined with monthly sampling over 5 types of popular fishing gear locally. Survey results indicated that the situation in the species composition was very diverse and rich with 253 species of fish have been identified of which 188 species are identified from sampling and 178 species from the recorded of fishers. Besides, there are 30 different species of aquatic animals were also identified, such as shrimp, crabs, snails, mussels and squid. Cyprini- dae and gobiidae were the highest rate in species composition with respectively 17.8% and 13% of all species. Fish composition was divided into 3 groups: freshwater fish appeared in the flood season (July-December), including Cyprinidae, Siluridae, pangasiid, Notopteridae, Botidae, Cobi- idae, Anabantidae, Channidae, Osphronemidae ..., seawater fish group appeared in the dry season (January- May) includes Clupeidae, Engraulidae, Leiognathidae, Lutjanidae ..., and brackish water fishes groups found throughout the year including Gobiidae, Mugillidae, Polynemidae ... Laotian shad (Tenualosa thibaudeaui) in the red list is determined for in this study. Most fish are collected in gonad developing stage 1 - 3. This shows the project area of Ben Tre North is not concentrated breeding grounds of fishes. The sluice gates and dikes construction proposed in the project area do not have serious impacts on fisheries resources in term of diversity of the fish fauna in the whole MKD, but the change of brackish and sea water habitats into fresh water habitat will affect sea fishes and brackish water fishes due to the loss of their ordinary habitats. Of course, the diversity of fish resources of inside proposed sluice gates will be lesser due to change of water quality and migrating constraints. Keywords: Northern part of Ben Tre, species composition, saline prevent, affecting. Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 25/11/2016 Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016 Ngày duyệt đăng: 05/01/2017 1 Department of Fisheres Ecology & Aquatic Resources, Reseach Institute for Aquaculture No.2. *Email: didzu72@yahoo.com
File đính kèm:
- khao_sat_hien_trang_thanh_phan_loai_thuy_san_va_du_bao_cac_a.pdf