Kết quả bước đầu áp dụng quy trình dùng kháng sinh và quy trình dùng chế phẩm vi sinh trong ương giống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở vùng đất phèn Tân Phước, Tiền Giang
TÓM TẮT
Nghiên cứu này trình bày những kết quả bước đầu cho ương giống cá tra ở vùng đất phèn thuộc
xã Thạnh Tân, huyện Tân Phước, Tiền Giang. Cá tra bột được ương trong vòng 47 ngày trên 4 ao
2.000 m2. Hai quy trình ương được thử nghiệm là quy trình dùng kháng sinh và quy trình dùng chế
phẩm vi sinh. Hai ao ương theo quy trình dùng kháng sinh có mật độ 700 cá bột/m2 được diệt khuẩn
bằng kháng sinh vào ngày thả bột và sau đó định kỳ 7 ngày/lần. Hai ao được ương theo quy trình
dùng chế phẩm vi sinh có mật độ 500 cá bột/m2 dùng chế phẩm vi sinh để xử lý chất thải hữu cơ
và lấn át vi sinh có hại từ ngày 9 và sau đó định kỳ 3 ngày/lần. Động vật phù du (ĐVPD) được gây
nuôi bằng thức ăn ủ và phân hóa học 3 ngày trước khi thả cá. Khối lượng và tỉ lệ sống hai ao nuôi
dùng quy trình chế phẩm vi sinh (3,4-11,1%) cao hơn hai ao dùng quy trình kháng sinh (0,0-3,8%).
Tuy nhiên, tỉ lệ sống ở hai quy trình đều thấp hơn so với nhiều vùng nuôi khác. Mật độ ĐVPD ở cả
hai quy trình trong các ngày đầu đều thấp, cần được bổ sung thức ăn để tăng mật độ. Bón vôi hàng
ngày với lượng 30-45 kg CaCO3 hoặc 10-20 kg CaO có thể ổn định được pH trên 7,6 và độ kiềm
ở mức 80-100 mg/l. Oxy hòa tan của các ao giảm dần đến ngày thứ 9, pH biến động 6 ngày sau khi
thả cá bột và thiếu thức ăn tự nhiên trong những ngày đầu có thể là các yếu tố tác động làm cá dễ
nhiễm bệnh. Hai ao dùng kháng sinh có diễn biến bệnh phức tạp. Hai ao dùng chế phẩm vi sinh có
cải thiện NO2 nhưng với NH3 thì chưa rõ. Hai chế phẩm vi sinh chưa cho thấy tác dụng ức chế vi
khuẩn gây bệnh vì cá vượt qua đợt bệnh giai đoạn ngày thứ 15 nhưng vẫn mắc bệnh gan thận mủ
và hao hụt nhiều ngày thứ 35.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả bước đầu áp dụng quy trình dùng kháng sinh và quy trình dùng chế phẩm vi sinh trong ương giống cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) ở vùng đất phèn Tân Phước, Tiền Giang
t trong những ngày đầu. Vào ngày thứ 15 khi cá bắt đầu chết, vi sinh có tác dụng làm giảm NO2 xuống mức 0,3 mg/l ở hai ao A3 và A4; 0,5 mg/l ở A1 và 0,4 mg/l ở ao A2. Tuy nhiên, vi sinh có tác dụng chưa rõ với chỉ tiêu NH3. Vào ngày thứ 22, khi bón kết hợp PondPlus và PondDtox ao A4 thì NH 3 không giảm mà còn có xu hướng tăng. Tác dụng ức chế vi khuẩn có hại của PondPlus cũng chưa rõ vì cá ao A3 và A4 tuy đã vượt qua đợt bệnh đầu tiên nhưng vẫn hao hụt nhiều vì bệnh gan thận mủ vào ngày 34-35 (Đồ thị 4). IV. THẢO LUẬN 4.1. Khối lượng và tỉ lệ sống của hai quy trình Khối lượng cá ở các ao nuôi cả hai quy trình (trừ ao A2) tương đối cao. Ở ngày 47, khối lượng cá đạt 1,9-2,1 g, cao hơn kết quả của Vương (2013) (0,91 g, 51 ngày tuổi). Điều này có thể do tỉ lệ sống của cá thấp, chỉ đạt 3,8% cho quy trình kháng sinh và 3,4-11,1% cho quy trình vi sinh. Kết quả điều tra của Nguyễn Văn Sáng và ctv., (2011) thì tỉ lệ sống trung bình 12,6% (có thể lên tới 30-40%). Trong nghiên cứu này, khối lượng và tỉ lệ sống của quy trình vi sinh cao hơn quy trình dùng kháng sinh, tuy nhiên tỉ lệ sống của cả hai quy trình đều thấp hơn so với nhiều vùng nuôi khác. 4.2. Gây nuôi thức ăn tự nhiên Giai đoạn ba ngày đầu rất quan trọng với tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá bột, phải chuẩn bị đủ thức ăn tự nhiên cho cá bột vì vào ngày thứ 2 cá bắt đầu ăn được ĐVPD, ngày thứ 3 noãn hoàng tiêu biến, cá bắt đầu phải ăn thức ăn bên ngoài (Shinsuke và ctv., 2010). Nhìn chung, mật độ ĐVPD của cả hai quy trình trong các ngày đầu đều thấp, với quy trình kháng sinh là 7-157 con/l, quy trình vi sinh là 7-319 con/l. Mật độ ĐVPD chỉ đáp ứng tương đối cho các ao A2, A3, A4; và có thể bị thiếu cho ao A1. Theo nhận định thì lượng ĐVPD không đủ cho cá ăn, nên phải bổ sung thức ăn bột và supastock (Sup+bột) cho cả bốn ao. Lượng Sup+bột của ao A1 được điều chỉnh cao hơn các ao khác. Mật độ ĐVPD tăng lên đến 1.293 con/l khi thêm 8,3-9,5 kg thức ăn cho 1000 m3. Việc gây nuôi ĐVPD bằng cách tạt thức ăn ủ một lần với lượng 4,4 kg/1000 m3 kết hợp với bón phân hóa học và bột sữa 3 ngày trước khi thả cá bột chưa cho kết quả tốt, có thể phải tăng lượng và số lần sử dụng thức ăn ủ. Ngoài ra, trong 3 ngày đầu sau khi thả bột cần tăng lượng Sup+bột để tăng mật độ ĐVPD các ngày tiếp theo. 4.3. Diễn biến các chỉ tiêu môi trường và các yếu tố kỹ thuật liên quan Độ kiềm tạo hệ đệm giúp pH ổn định (Lê Văn Cát và ctv., 2006). Sau khi bón vôi độ kiềm của 4 ao tăng dần và từ ngày thứ 18 ổn định ở mức 80-100 mg/l. Ao A2 có độ kiềm xấp xỉ 100 mg/l từ ngày thứ 19 trở đi giúp cho pH ổn định hơn các ao còn lại. Tuy nhiên, CaCO3 là hợp chất ít tan, quá trình phân ly bicacbonate tạo hệ đệm diễn ra từ từ (Trương Quốc Phú và ctv., 2006) nên từ ngày 6-11 pH các ao có biến động lớn (pH trên 8,4 giảm xuống 7,6 và dao động giữa 2 ngày liên tiếp từ 0,3-0,4). Nhìn chung, độ kiềm 4 ao nuôi của hai quy trình là thích hợp cho ương cá nhưng pH vẫn biến động. Như vậy để giữ độ kiềm, pH cao và ổn định nên bón vôi liên tục trong suốt thời gian ương. Hàm lượng oxy hòa tan giảm có thể do điều chỉnh quạt nước chưa đúng, việc diệt trùng bằng Chlorine trong nước phèn khiến tảo phát triển chậm. Nuôi cá tra giống ở hàm lượng oxy hòa tan cao (100% bảo hòa tương ứng 7,5 mg/l ở 30°C) sẽ cho tăng trưởng tốt nhất và cá không 122 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 bị stress (Nguyễn Thị Kim Hà và ctv., 2012). Có thể oxy hòa tan thấp gây stress nên cá ao A2, A3, A4 bị bệnh sớm vào ngày 12 và ao A1 vào ngày 14. Bốn ao có lượng oxy hòa tan giảm trong 9 ngày đầu (từ 7,4 mg/l giảm xuống 2,4 mg/l) nhưng nhờ điều chỉnh quạt nước đúng và hệ tảo dần ổn định nên oxy cũng tăng dần. Kết quả cho thấy các biến động như oxy hòa tan giảm dần đến ngày thứ 9; pH biến động trong 6 ngày đầu có thể là yếu tố tác động làm cá dễ nhiễm bệnh. Hai ao dùng kháng sinh có diễn biến bệnh phức tạp và hao hụt nhiều hơn hai ao dùng vi sinh. Cá chết lần thứ nhất có biểu hiện quay, bụng phình to; xuất huyết. Quy trình kháng sinh có cá bệnh (từ ngày 14-24) kéo dài và nhiều hơn quy trình vi sinh (từ ngày 14-19). Tại thời điểm xuất hiện bệnh, cá còn trong giai đoạn biến thái nên có thể bị ảnh hưởng bởi môi trường bất lợi, thiếu thức ăn. Hai ao A1, A2 phải chịu đựng các biến động môi trường và mật độ ĐVPD rất thấp nên cá yếu, đề kháng thấp (đặc biệt ao A2 - cá bệnh liên tục và sớm chuyển sang bệnh gan thận mủ vào ngày thứ 25); trong khi ao A3 và A4, cá tăng trưởng tốt và vượt qua đợt bệnh nhanh hơn do thức ăn tự nhiên được đáp ứng tốt hơn. Đợt bệnh thứ 2 cá nhiễm bệnh gan thận mủ và hao hụt rất nhiều ở cả hai quy trình. Nguyên nhân gây bệnh có thể do chưa phát hiện được thời điểm vi khuẩn gây bệnh Edwardsiella ictaluri xuất hiện và các biện pháp khống chế vi khuẩn chưa hiệu quả. Quy trình kháng sinh có diệt khuẩn định kỳ nhưng cấy lại vi sinh chưa kịp khiến nhóm vi khuẩn gây bệnh phát triển ưu thế hơn. Bên cạnh đó, cá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất lợi từ đầu như môi trường, thức ăn, trải qua một đợt bệnh kéo dài, dùng lặp lại một loại kháng sinh gây hiện tượng kháng thuốc ở vi khuẩn. Quy trình vi sinh định kỳ cấy vi khuẩn có lợi để lấn át vi khuẩn gây bệnh chưa hiệu quả có thể do mật độ và chất lượng của vi khuẩn không đạt yêu cầu. Nguyễn Văn Hảo và ctv., (2013) cho rằng phải kiểm soát liên tục tác nhân gây bệnh, khi thấy xuất hiện thì xử lý ngay bằng các chất diệt khuẩn, sau đó cấy vi sinh trở lại. Vì vậy, trong vùng đất phèn có thể phải phối hợp dùng vi sinh và kháng sinh để nâng cao hiệu quả ương giống. Việc thay nước vào ngày thứ 27 và 41 giúp các khí độc duy trì ở mức thấp (NO 2 = 0,1 mg/l, NH3 = 0,05 mg/l). Vì vậy có thể kết hợp thay nước, xác định đúng thời điểm sử dụng kháng sinh và vi sinh, tăng liều lượng và tần suất sử dụng vi sinh hoặc thay thế một loại vi sinh khác để cải thiện môi trường và lấn át vi sinh gây bệnh. Một giải pháp khác có thể áp dụng là chuyển cá qua ao khác có điều kiện môi trường tốt hơn. Một nhận định khác là có thể các chỉ tiêu pH thay đổi, NH 3 và NO 2 ở mức như trong nghiên cứu này chưa làm cho cá bị stress, nhưng cá bị bệnh có thể liên quan đến vi sinh vật có hại chưa được khống chế hoàn toàn. NH3 và NO2 tăng cao vào ngày thứ 15 có thể do lượng thức ăn bột và supastock dư thừa những ngày trước bắt đầu phân hủy. Vào ngày 19, khi cá chuyển qua thức ăn mảnh và viên thì NH 3 không thay đổi đột biến. Các nghiên cứu độ độc của NH 3 cho biết cá bị ngộ độc ở nồng độ 0,6-2,0 mg/l và nồng độ thích hợp nên < 0,13 mg/l (Trương Quốc Phú và ctv., 2006); liều gây chết cá 50% trong 48-96 giờ trong khoảng 0,2-3,0 mg/l (Lê Văn Cát và ctv., 2006). Lý Thị Thanh Loan và ctv., (2011) cho biết nồng độ NO 2 gây độc cho cá tra giống là 8 mg/l. Bốn ao nuôi có nồng độ NH3 và NO2 trong giới hạn cho phép của các nghiên cứu trước. 123TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Tăng trưởng và tỉ lệ sống hai ao nuôi quy trình vi sinh cao hơn quy trình dùng kháng sinh, tuy nhiên tỉ lệ ương giống ở hai quy trình đều thấp hơn so với nhiều vùng nuôi khác. Bón vôi hàng ngày với lượng 30–45 kg CaCO3 hoặc 10–20 kg CaO có thể nâng được pH lên trên 7,6, ổn định được pH và độ kiềm ở mức 80-100 mg/l. Mật độ ĐVPD của hai quy trình các ngày đầu đều thấp. Mật độ ĐVPD chỉ đáp ứng tương đối cho các ao A2, A3 và A4; có thể bị thiếu cho ao A1. Cần điều chỉnh bổ sung thức ăn bột và supastock nhằm tăng mật độ ĐVPD cho cá ương. Oxy hòa tan của các ao giảm dần đến ngày thứ 9, pH biến động 6 ngày sau khi thả cá bột và thiếu thức ăn tự nhiên trong những ngày đầu có thể là các yếu tố tác động làm cá dễ nhiễm bệnh. Hai ao dùng kháng sinh có diễn biến bệnh phức tạp và hao hụt nhiều hơn hai ao dùng vi sinh. Hai ao sử dụng kháng sinh chưa thể khống chế mầm bệnh. Hai ao dùng vi sinh có cải thiện chỉ tiêu NO2 nhưng với chỉ tiêu NH3 chưa rõ. Hai chế phẩm vi sinh chưa cho thấy tác dụng ức chế vi khuẩn gây bệnh vì cá vượt qua đợt bệnh giai đoạn ngày thứ 15 nhưng vẫn mắc bệnh gan thận mủ và hao hụt nhiều ngày thứ 35. Giải pháp trong giai đoạn này có thể là thay nước, tăng tần suất và lượng chế phẩm hoặc thay loại chế phẩm vi sinh sử dụng, hoặc chuyển qua ao mới. 5.2. Đề xuất Tiếp tục nghiên cứu mật số vi sinh có hại trong ao theo thời gian, thử nghiệm giải pháp tổng hợp sử dụng chế phẩm vi sinh, chất diệt khuẩn hoặc kháng sinh để hạn chế dịch bệnh xảy ra trên cá tra ương từ bột lên giống. CẢM ƠN Các tác giả cảm ơn TS. Nguyễn Văn Hảo đã có những ý kiến đóng góp quý báu, và TS.Trịnh Quốc Trọng đã đọc và sửa bản thảo. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Lê Văn Cát, Đỗ Thị Hồng Nhung, Ngô Ngọc Cát, 2006. Nước nuôi thuỷ sản-chất lượng và giải pháp cải thiện chất lượng. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Hồ Quang Đức, Nguyễn Văn Đạo, Trương Xuân Cường và Lê Thị Mỹ Hảo, 2011. Đánh giá sự biến động đất mặn và đất phèn vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau 30 năm sử dụng. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam số 22. Nguyễn Thị Kim Hà, Đoàn Minh Hiếu, Lê Thị Trúc Mơ, Nguyễn Văn Toàn, Đỗ Thị Thanh Hương và Nguyễn Thanh Phương, 2012. Ảnh hưởng của oxy hòa tan lên tăng trưởng và tiêu hóa của cá tra (Pangasianodon hypophthalmus). Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ, trang 154-164. Nguyễn Văn Hảo, Lê Hồng Phước, Đỗ Quang Tiền Vương, Lê Hữu Tài, Thới Ngọc Bảo, Lưu Đức Điền, Cao Thành Trung, Nguyễn Viết Dũng, Đặng Ngọc Thuỳ, Nguyễn Thanh Trúc, Nguyễn Văn Phụng, Đoàn Văn Bảy. 2013. Báo cáo tổng kết nghiên cứu mô hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng phòng ngừa hội chứng chết sớm. Tài liệu chưa công bố. Lý Thị Thanh Loan, Bùi Thị Thanh Thảo, Ngô Xuân Tuyến, 2011. Khảo sát nồng độ nitrite trong môi trường ảnh hưởng tới hồng cầu và bạch cầu trong máu cá tra (Pangasianodon hypophthalmus). Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, trang 372-385. Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê Hoàng Yến, Huỳnh Trường Giang, 2006. Giáo trình quản lý chất lượng nước nuôi trồng thuỷ sản. Khoa thuỷ sản, Trường đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Sáng, Phạm Văn Khánh, Phạm Đình Khôi, Phan Thanh Lâm, Nguyễn Quyết Tâm, Đặng Minh Phương, Nguyễn Thị Đang, Trần Anh Dũng, 124 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Nguyễn Văn Ngô, 2011. Báo cáo tổng kết: Đánh giá hiện trạng sản xuất giống và xây dựng các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng giống cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long, 105 trang. Bùi Quang Tề, 2006. Bệnh học thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 440 trang. Nguyễn Thế Vương, 2013. Ảnh hưởng của mật độ và lượng thức ăn lên tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá tra ương từ cá hương 21 ngày tuổi lên cá giống. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long, trang 13-23. 28 TCN 168 : 2001 Cá nước ngọt – cá bột các loài: Tai tượng, Tra, Basa – yêu cầu kỹ thuật. Tài liệu tiếng Anh Baras, E., Slembrouck, J., Cochet, C., Caruso, D., Legendre, M., 2010. Morphological factors behind the early mortality of cultured larvae of the Asian catfish, Pangasianodon hypophthalmus. Aquaculture 298, 211–219. Boyd, C. E., 1998. Water Quality for Pond Aquaculture. Research and Development Series No. 43 August 1998. International Center for Aquaculture and Aquatic Environments Alabama Agriculture Experiment Station Auburn University, Auburn, Alabama. 37p. Ravichandran, R., Shaick, J.R., and Jalaluddin, R., 2001. Stress management strategy with probiotics for preventing shrimp diseases. Appl. Fisheries and Aquaculture 2001:73-74. Shinsuke, M., Kosuke, S., Phommachan, P., Vongvichith, B., 2010. Growth and morphological development of laboratory-reared larval and juvenile Pangasianodon hypophthalmus. Ichthyol Res 57: 139-147. Slembrouck, J., Baras, E., Subagja, J., Hung, L.T., Legendre, M., 2009. Survival, growth and food conversion of cultured larvae of Pangasianodon hypophthalmus, depending on feeding level, prey density and fish density. Aquaculture 294: 52–59. 125TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 PRELIMINARY RESULTS FOR APPLICATION OF ANTIBIOTICS PROTOCOL AND PROBIOTICS PROTOCOL IN NURSING TRA CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus) FINGERLING IN ACID SULPHATE SOIL AREA OF TAN PHUOC DISTRICT, TIEN GIANG PROVINCE Nguyen Huynh Duy1*, Nguyen Van Sang2 ABSTRACT This study presented preliminary results for nursing of tra catfish (Pangasianodon hypophthalmus) from fry to fingerlings in acid sulphate soil area of Thanh Tan village, Tan Phuoc district, Tien Giang province. Fish were nursed in 47 days in four 2000 m2 earthen ponds. Two protocols were tested, namely antibiotic and probiotic protocols. For antibiotic protocol, two ponds (with a stock- ing density of 700 fish/m2) were treated with antibiotics on the day of stocking, and thereafter every 7 days. For probiotic protocol, two ponds (with a stocking density of 500 fish/m2) were adminis- trated with probiotics on day 9, and thereafter every 3 days, for waste treatment and suppression of unwanted microbiologies. Zooplankton was boosted using silage and inorganic fertilizers, 3 days before stocking. Survival rate of the antibiotic protocol (3.4–11.1%) was higher than that of the probiotic protocol (0.0–3.8%). However, the survival rate of both protocols were lower than that of other nursing locations. The density of zooplankton for both protocols were low in early days, therefore additional feed must be used. Liming (30–45 kg CaCO3 or 10–20 kg CaO) maintained pH over 7.6 and alkalinity at 80–100 mg/l. In acid sulphate soil area, NO2 and NH3 could cause stress in fish at a lower dose compared to freshwater. Among the causes that contributed to fish disease outbreak, most noticable were (1) dissolved oxygen in all 4 experiment ponds reduced toward day 9, and (2) pH fluctuated in the first 6 days. For two ponds that applied antibiotic protocol, disease outbreak was unpredictable. For tow ponds that applied probiotic protocol, NO2 was reduced but the effect of probiotics on NH3 was uncleared. Probiotics were found to be impotent in supressing harmful bacteria, because fish got diseases in day 15 and again in day 35 with high mortality. Keywords: tra catfish, acid sulphate soil, nursing. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Hảo Ngày nhận bài: 10/8/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014 Ngày duyệt đăng: 05/9/2014 1 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2. 2 Research Institute for Aquaculture No.2. * Email: duynh09@gmail.com
File đính kèm:
- ket_qua_buoc_dau_ap_dung_quy_trinh_dung_khang_sinh_va_quy_tr.pdf