Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)
TÓM TẮT
Cá trà sóc (Probarbus jullieni Sauvage, 1880) được ghi vào sách đỏ về động vật bị đe dọa ở mức độ
nguy cấp. Cá được thu thập từ tự nhiên vào nuôi lưu giữ trong ao vào năm 2005. Năm 2011 bắt đầu
nghiên cứu cho cá sinh sản. Nuôi vỗ trong ao đất tỷ lệ thành thục đạt 60,3% khi nuôi bằng thức ăn
viên và chất bổ sung (dầu mực, vitamin và khoáng). Khi nuôi vỗ bằng thức ăn viên, thịt ốc bươu và
chất bổ sung (dầu mực, vitamin và khoáng) tỷ lệ thành thục tăng lên 64,6%. Cá trà sóc thành thục
từ tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau, mùa vụ cá sinh sản tập trung trong tháng 11 và 12. Độ
tuổi thành thục lần đầu của cá trà sóc đực ở tuổi 4+, cá cái 5+. Hệ số thành thục cá cái đạt 7,2-7,8%,
sức sinh sản tương đối đạt 23.810 trứng/kg cá cái và sức sinh sản tuyệt đối đạt 102.387 trứng/cá cái
(cá có trọng lượng 4,3 kg). Khi thành thục, trứng có đường kính 2,05 ± 0,16 mm. Dùng LH-RHa +
DOM + não thùy hoặc HCG + não thùy kích thích cá cái rụng trứng đạt trên 50%. Tỷ lệ trứng thụ
tinh đạt cao nhất là 59,2%, tỷ lệ nở 13,9% và tỷ lệ sống cá bột là 71%. Ương cá trà sóc 20-25 ngày
trong bể ở mật độ 500 con/m2, 1.000 con/m2 và 1.500 con/m2 đạt tỷ lệ sống lần lượt là 65,5%, 63,5
% và 55 %. Ương cá trà sóc trong ao đất 60 ngày tuổi tăng trưởng trung bình đạt 0,13 g/ngày, trọng
lượng trung bình 5,33 g/con
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kết quả ban đầu sinh sản nhân tạo cá trà sóc (Probarbus jullieni sauvage, 1880)
, kích cỡ cá, tình trạng dinh dưỡng, (Dương Nhật Long, 2013). Kết quả khảo sát và phân tích NO 2 trong ao nuôi luôn < 0,2 mg/lít, đây là giới hạn rất thích hợp cho môi trường nuôi vỗ cá bố mẹ. Theo Trương Quốc Phú (2005), NO 2 < 0,5 mg/lít là phù hợp cho cá. Hàm lượng NH3-N được sinh ra trong ao chủ yếu do sự phân hủy chất thải ra từ cá, thức ăn thừa và xác tảo chết. Những thành phần này bổ sung rất nhiều muối dinh dưỡng cho ao nuôi, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều khí độc (trong đó có NH3). Theo Trương Quốc Phú (2005), trong ao hàm lượng NH3-N> 1 mg/lít là không thích hợp cho các loài cá nuôi. Theo Nguyễn Đình Trung (2002), khi tổng NH3 lên đến 0,5 ppm cần phải thay nước để giảm lượng chất hữu cơ trong ao. Giá trị NH3-N có tăng lên theo thời gian nuôi là do sự tích tụ và phân hủy thức ăn thừa, chất thải từ cá, xác tảo chết, trong ao càng nhiều theo thời gian nuôi. Sự biến động NH3-N không lớn và trong giới hạn cho phép nuôi cá. 4.1.2. Sự thành thục sinh dục của cá So với mùa vụ sinh sản các loài cá khác ở ĐBSCL, cá trà sóc thành thục muộn hơn và khoảng thời gian thành thục ngắn.Trong cùng điều kiện nhân tạo kết quả nghiên cứu của Thi Thanh Vinh (2012, 2013) và kết quả nghiên cứu của Rodrarung và Ensirisak (1990) cá trà sóc đực có tuổi thành thục lần đầu khác nhau, nhưng trọng lượng gần bằng nhau. Trong khi đó ở cá cái tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu theo chiều ngược lại. Hai kết quả nghiên cứu trên không nói đến nguồn gốc và điều kiện sống của cá nên có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự khác nhau về tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu. Tỉ lệ cá trà sóc cái và đực thành thục đạt trên 55% (Hình 1). Năm 2013, cá cái có tỷ lệ thành thục thấp hơn cá đực, năm 2014 cái lại có tỷ lệ thành thục thấp hơn cá đực. Có thể tuổi thành thục lần đầu cá đực thấp hơn cá cái nên năm 2013 phần lớn cá đực đạt tuổi thành thục lần đầu. Điều này cũng phù hợp với một số tác giả đã nhận định. Thành phần thức ăn nuôi vỗ ảnh hưởng đến tỷ lệ cá thành thục. Khi nuôi vỗ cá bố mẹ cho ăn cùng khẩu phần thức ăn nhưng thành phần khác nhau sẽ cho tỷ lệ cá thành thục khác nhau. Thịt ốc được thay thế trong thành phần thức ăn nuôi vỗ cho thấy có sự khác biệt về tỷ lệ thành thục giữa 2 nghiệm thức, nhưng lại không có ý nghĩa về thống kê. Amatyakul (1995) phân tích dạ dày ở cá trà sóc kích thước 80 cm có nhiều ốc, hai mảnh vỏ, ông cho rằng đây là loài cá ăn tạp với thức ăn ưa thích là động 25TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 vật thân mềm. Vì vậy ốc là thành phần thức ăn rất cần cho nhu cầu dinh dưỡng cá bố mẹ và có ý ảnh hưởng đến tỷ lệ cá thành thục. Cá bố mẹ được tập hợp có kích thước khác nhau nên trong đàn có một số cá chưa đạt tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu (>4 tuổi). Một số cá vừa đạt tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu (>4 tuổi), tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn III và dừng lại, nên hệ số thành thục rất thấp (0,46-0,75%). Một số cá đạt tuổi và trọng lượng thành thục lần đầu (>5 tuổi),tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn IV, hệ số thành thục cao hơn(7,2-7,8%). Cũng gần giống những kết quả nghiên cứu khác. Theo Rodrarung và Jensirisak (1990) cá trà sóc thành thục >5 tuổi, khi đó cá đực có trọng lượng 2-7 kg và cá cái trọng lượng 5-10 kg/con. Sức sinh sản tuyệt đối cá trà sóc từ 68.230- 102.387 trứng/cá cái. Trong cùng điều kiện sống, cá trà sóc có sức sinh sản khác nhau ở những cá thể có trọng lượng và tuổi khác nhau. Sức sinh sản thể hiện đặc điểm sinh sản của giống loài, tùy đặc điểm sinh học từng loài cá mà sức sinh sản cao hoặc thấp, thường ở những cá sinh sản không chăm sóc con thì sức sinh sản tuyệt đối cao hơn cá sinh sản chăm sóc, giữ con khi cùng trọng lượng. Về sức sinh sản tương đối cá trà sóc cao hơn cá hô không nhiều nhưng thấp hơn nhiều so với cá cóc. 4.2. Kích thích cá sinh sản Đến nay chưa tìm thấy dấu hiệu nào để phân biệt cá trà sóc đực và cá cái rõ ràng. Đến mùa sinh sản có thể phân biệt cá đực và cá cái như sau: Cá đực thân thon và dài, lỗ sinh dục nhỏ, đường dẫn ống sinh dục nông và hẹp, vuốt ở lườn bụng có tinh chảy ra. Cá cái bụng to, lỗ sinh dục lớn, đường dẫn ống sinh dục sâu và rộng. Cá thành thục dùng que lấy được tế bào trứng. Vẫn chưa có tài liệu nào nói về ảnh hưởng môi trường đến quá trình phát triển phôi của trứng. Theo Cacot (2008), nghiên cứu trứng cá trà sóc nở sau thời gian thụ tinh 42 giờ ở nhiệt độ nước 22-28°C. Nhiệt độ là yếu tố môi trường cần thiết đối với đời sống thuỷ sinh vật vì cá là động vật biến nhiệt. Nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến các quá trình sống của cá như: quá trình trao đổi chất, hô hấp, sinh trưởng, cường độ bắt mồi, vv pH là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đối với động vật thủy sản. Đối với cá việc tăng hay giảm pH sẽ làm thay đổi độ thẩm thấu của tế bào không có lợi cho cá và ảnh hưởng đến sinh trưởng, tỷ lệ sống, sinh sản và dinh dưỡng. Cá sống trong môi trường pH quá thấp hay quá cao đều sẽ làm chậm sự phát dục, hoặc làm cho cá không đẻ hay đẻ ít. Trương Quốc Phú (2003) nhận định pH thích hợp cho các loài cá nuôi là 6,5-9. Các giá trị pH đo được trong suốt thời gian ương biến động pH không lớn, trung bình buổi sáng 7,7±0,1, buổi chiều 8,1±0,12 ở chỉ số pH như trên là thích hợp cho sự phát triển của cá. 4.3. Ương cá giống Hàm lượng ôxy hòa tan (DO) là yếu tố rất quan trọng trong ao nuôi, DO trong ao nuôi thấp không những tác động đến hoạt động sống của cá mà còn ảnh hưởng đến sự thành thục sinh dục. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2005), DO trong nước thích hợp cho các loài cá nuôi từ 3-4 mg/lít. DO nước buổi sáng và chiều trong ao ương từ 6,7-7,9 mg/l là rất tốt để cho cá hương phát triển. Cá trà sóc ương 40 ngày tuổi (tính từ cá hương) tăng trưởng nhanh dần theo thời gian, từ ngày thứ 20 đến ngày thứ 40 cá tăng trưởng nhanh hơn. Trọng lượng trung bình qua 2 đợt ương khi thu hoạch là 5,4 g/con và 5,6 g/con. Sự khác nhau về trọng lượng cá thu hoạch không khác biệt có ý nghĩa thống kê. Cá trà sóc ương trong ao được gây thức ăn tự nhiên (Moina) và cung cấp đủ thức ăn công 26 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nghiệp (42% đạm) nên không chỉ cá lớn nhanh mà tỷ lệ sống cũng đạt cao (>50%). Tỷ lệ sống cá trà sóc cũng giống như cá cóc là 50,0-58,1% (Phạm Văn Khánh, 2004), cá hô 54,8% (Huỳnh Hữu Ngãi, 2008). V. KẾT LUẬN 5.1. Kết luận - Tuổi ảnh hưởng đến sự thành thục của cá. Chọn cá bố mẹ nuôi vỗ nên chọn cá đực tuổi 4+ trọng lượng ≥2,9 kg, cá cái tuổi 5+, trọng lượng ≥4,3 kg. Nuôi vỗ trong ao mùa vụ cá thành thục từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau. Tỷ lệ cá thành thục đạt cao nhất từ tháng 11-12, khoảng thời gian này cũng là thời điểm cá sinh sản. - Nuôi vỗ cá bố mẹ bằng thức ăn viên công nghiệp (40% đạm và 8% béo) và khoáng (0,5% tổng thức ăn) và dầu mực (3% tổng thức ăn) có bổ sung thịt ốc bươu (20% tổng thức ăn). Cá bố mẹ thành thục đạt 64,6% và tốt hơn nuôi vỗ không có thịt ốc bươu. - Chọn cá cái sinh sản có đường kính trứng >2 mm. Cá cái thành thục được kích thích bằng 0,5 mg PG và 100 µg LH-RHa + 10 mg DOM / kg cho tỷ kệ cá rụng trứng cao hơn dùng 0,5 mg PG và 2.000 IU HCG/kg. - Buồng trứng cá cái ở giai đoạn IV có hệ số thành thục 7,2%, sức sinh sản tương đối và tuyệt đối đạt cao nhất là 23.810 trứng/kg cá cái và 102.387 trứng/cá cái (cá trọng lượng 4.300g). - Ương cá trà sóc 20 ngày trong bể mật độ ương 1.000 con/m3 cho ăn tổ hợp thức ăn (Moi- na + lòng đỏ trứng gà + thức ăn bột mịn) là thích hợp nhất. Ương cá trà sóc từ hương 25 ngày tuổi lên giống 60 ngày tuổi trong ao ở mật độ 50 con/ m3, tỷ lệ sống đạt 60,4-88,9%, trọng lượng 5,4- 5,6 g/con. 5.2 Đề xuất - Nghiên cứu thêm các yếu tố dinh dưỡng (thức ăn theo giai đoạn nuôi) và môi trường (thủy lý hóa, dòng chảy) ảnh hưởng đến sự thành thục cá bố mẹ nhằm nâng cao các chỉ số sinh sản của cá như tỷ lệ thành thục, hệ số thành thục và sức sinh sản để xây dựng qui trình nuôi vỗ cá bố mẹ hoàn thiện hơn. - Cần nghiên cứu thêm các thí nghiệm ương cá hương lên cá giống ở nhiều mật độ và thức ăn khác nhau để xây dựng được quy trình ương cá trà sóc hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Công ty trách nhiệm hữu hạn Tây nguyên, 2009. Đánh giá các loài (loài bản địa và các loài khác) gắn với nhu cầu sản xuất trong tương lai nhằm đa dạng giống loài thủy sản ở tỉnh Đắk Lắk, 95 trang. Dương Nhật Long, 2013. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá heo (Botiamodesta bleeker, 1865) ở tỉnh An Giang, 87 trang. Đặng Văn Trường, Hoàng Quang Bảo, Phạm Đình Khôi và Thi Thanh Vinh, 2005. Sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá mè hôi (Osteochilus melanop- leurus). Tuyển tập Nghề cá sông Cửu long. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II, NXB Nông nghiệp, 544 trang. Hoàng Quang Bảo, Phạm Đình Khôi, Thi Thanh Vinh và Đặng Văn Trường, 2005. Sinh sản nhân tạo cá chài (Leptobarbus hoevenii). Tuyển tập Nghề cá sông Cửu Long. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2. NXB Nông nghiệp, 544 trang. Huỳnh Hữu Ngãi, 2006. Thuần dưỡng, tái tạo và phát triển cá hô (Catlotcarpio siamensis). Báo cáo khoa học - Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản 2, 30 trang. Pravdin, I.F., 1963. Hướng dẫn nghiên cứu cá. NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Phạm Thị Minh Gi- ang dịch, 276 trang. Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại 27TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 các loài cá nước ngọt Nam Bộ, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 350 trang. MRC, 2005. Phân bố và sinh thái một số loài cá sông quan trọng ở hạ lưu sông Mekong,120 trang. Nguyễn Đình Trung, 2002. Giáo trình Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi thủy sản. Đại học Nha Trang, 102 trang. Nguyễn Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở Khoa học và kỹ thuật sản xuất giống cá. NXB Nông nghiệp TPHCM, 215 trang. Nguyễn Văn Kiểm, 2005. Giáo trình Kỹ thuật sản xuất giống. Trường Đại học Cần Thơ, 23 trang. Phạm Văn Khánh, Đặng Văn Trường, Thi Thanh Vinh, Phạm Đình Khôi, Nguyễn Thị Rô, Nguyễn Thị Hồng Vân và Nguyễn Tường Anh, 2004. Sinh sản nhân tạo cá cóc (Cyclocheilichthys enoplos, Bleecker, 1850). Tuyển tập nghề cá sông Cửu long, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 143 trang. Trương Quốc Phú, 2003. Quản lý chất lượng nước trong ao nuôi cá nước ngọt. NXB nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 177 trang. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1982. Định loại cá nước ngọt. Đại Học Cần Thơ, 361 trang. Thi Thanh Vinh, Đặng Văn Trường, Hoàng Quang Bảo và Phạm Đình Khôi, 2005. Kết quả sinh sản nhân tạo và ương nuôi cá duồng (Cirrhinus microlepis). Tuyển tập Nghề cá sông Cửu Long. Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2. NXB Nông nghiệp, 544 trang. Thi Thanh Vinh, 2008. Một số đặc điểm sinh học và bước đầu sinh sản nhân tạo cá hô. Luận văn tốt nghiệp cao học. Trường Đại học Cần thơ, 59 trang. Thi Thanh Vinh, 2011. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gien và giống thủy sản nước ngọt. Báo cáo tổng kết đề tài năm Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, 22 trang. Thi Thanh Vinh, 2012. Bảo tồn, lưu giữ nguồn gien và giồng thủy sản nước ngọt. Báo cáo tổng kết đề tài năm Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2, 21 trang. Tài liệu tiếng nước ngoài Cacot, P., 2008. Domestication of the indigenous fish species in Laos, CIRAD-Aquaculture Unit and NAFRI-LARReC project.Activity report 15 Jan 08. Trial on the reproduction of the carp Pa-eun Probarbus jullieni with fish breeders collected from the Mekong River at the Don Kho Island (Dec. 07), 45 p. Mattson, N.S., Buakhamvongsa, K., Sukumasavin, N., Tuan, N., Vibol, O., 2002. Cambodia Mekong gi- ant fish species: on their management and biology. MRC Technical Paper No. 3, Mekong River Com- mission, Phnom Penh. pp. 29. ISSN: 1683-1489. Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Cambodian Me- kong. FAO Species Indentification Field Guide For Fisheries Purpose . Roma, FAO, 265, 49 p. Rodrarung, D., Janesirisak, S., 1990. Induced spawning of earthen pond reared Jullien carp. In: Annual Report 1990, pp. 114-117. Nongkai Inland Fisheries Station. Udonthani Inland Fisheries Development Center, Inland Fisheries Division, Department of Fisheries, Ministry of Agriculture and Cooperatives, Nongkai, Thailand. Sukumasvavin, N., 2006. Studies on breeding and ge- netic diversity of an endangered cyprinids of the Mêkông river, seven - line barb probarbus jullieni. Tohoku university, 179 p. Fishbase, 2015. mary.php?ID=5422&gienusname= Probarbus&spe- ciesname= jullieni. Probarbus jullieni, fishbase.org (truy cập ngày 01/02/2015). 28 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 5 - THÁNG 6/2015 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 PRemilinaRY ResUlTs oF indUced sPaWning oF Probarbus jullieni sauvage, 1880 Thi Thanh Vinh1*, Pham Cu Thien2 ABSTRACT Probarbus jullieni is one of the critically endangered fish species recorded in the red book. The research fish was collected from the natural water bodies and cultured in the earthen ponds in 2005. The study on induced spawning started in 2011. Broodstock matured at 60.3% when conditioning in the earthen pond by feeding on pelleted feed and the supplements such as squid oil, vitamin and mineral. The matured rate reached 64.6% when adding snail flesh into the feed formula during broodstock conditioning. Probarbus jullieni matured in the period of October to January and the main spawning season was in November and December. The first maturation was at the age of 4+ for male and 5+ for female. The mature index of female was at 7.2-7.8%, the relative fecundity was 23,810 eggs/ kg and the absolute fecundity was 102,387 eggs (the weight of female was 4.3kg). The diameter of egg reached 2.05± 0.16 mm. The spawning rate was over 50% when injecting LH-RHa+DOM+ PG or HCG+PG. The highest fertilization rate was 59.2%, hatchling rate at 13.9% and the survival rate of fry at 71.0%. Nursing of Probarbus jullieni in 20-25 days in the cement tank at the density of 500, 1,000 and 1,500 inds/m2 got the survival rate at 65.5%, 63.5% and 55.0%, respectively. Nursing Probarbus jullieni in 60 days in the earthen pond had the average growth rate at 0.13g/day and the average weight at 5.33g/fish. Keywords: Probarbus jullieni, induced spawning, gonadotropin hormone, nursing, survival rate. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 29/5/2015 Ngày thông qua phản biện: 10/6/2015 Ngày duyệt đăng: 15/6/2015 1 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture – Research Institute for Aquaculture No2. * Email: vinhthanhthi@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No 2.
File đính kèm:
- ket_qua_ban_dau_sinh_san_nhan_tao_ca_tra_soc_probarbus_julli.pdf