Hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi thâm canh ở tỉnh Bến Tre
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 12/2014 đến tháng 05/2015 thông qua phỏng vấn 30 hộ nuôi
tôm sú và 30 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) nhằm đánh giá hiệu quả tài chính-kỹ thuật cũng
như tìm ra các yếu tố sản xuất ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi. Kết quả cho thấy
quy mô nuôi tôm sú là 10.210,23±7.204,52 m2/hộ, nhỏ hơn TTCT (4.596,88±2.673,26 m2/hộ), mật
độ thả của tôm sú cũng thấp hơn nhưng hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) cao hơn (các giá trị tương ứng
là 36,50 con/m2 và 1,48 cho nuôi tôm sú so với 87,30 con/m2 và 1,40 cho nuôi TTCT) do thời gian
nuôi dài hơn. Năng suất và tỷ lệ sống của TTCT đạt 10,21 tấn/ha/vụ và 74,42%, cao hơn tôm sú
(7,80 tấn/ha/vụ và 66,12%). Tổng chi phí đầu tư và lợi nhuận đạt được từ nuôi TTCT là 756,62 và
581,37 triệu đồng/ha/vụ, cao hơn so với tôm sú (737,22 và 696,26 triệu đồng/ha/vụ). Nuôi TTCT có
mức độ rủi ro cao hơn với 16,73% số hộ thua lỗ, tỷ lệ này ở tôm sú là 5,34%. TTCT được ưu tiên
hơn do năng suất cao, thời gian nuôi ngắn và xu hướng nuôi nhiều. Kết quả hồi quy Binary logistic
cho thấy diện tích ao, số năm kinh nghiệm và số người trong gia đình là những yếu tố ảnh hưởng
đến lựa chọn đối tượng tôm nuôi của chủ hộ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả và các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi thâm canh ở tỉnh Bến Tre
ng chi phí có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất (Lê Xuân Sinh và ctv., 2006). Chi phí nuôi TTCT có phần cao hơn tôm sú do chi phí con giống và thức ăn cao hơn. (a) Tôm thẻ chân trắng b) Tôm sú Hình 3: Cơ cấu chi phí biến đổi trong nuôi TTCT (a) và tôm sú (b) 3.3.2. Doanh thu và lợi nhuận Giá thành nuôi tôm sú cao hơn giá thành TTCT khoảng 10,000 đồng/kg (Bảng 4), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), cao hơn kết quả nghiên cứu năm 2011 của Lê Xuân Sinh và ctv., (68,52 nghìn đồng/kg) và Thế Đạt (55,00 nghìn đồng/kg) do sự gia tăng của các loại chi phí đầu vào. Doanh thu bình quân từ nuôi TTCT cao hơn tôm sú (Bảng 4) do đạt năng suất cao hơn, tuy giá bán tôm sú có cao hơn TTCT do kích cỡ lớn hơn nhưng không đủ bù đắp cho phần năng suất thấp hơn của tôm sú. Lợi nhuận thu được từ TTCT cao hơn tôm sú hơn 40 triệu đồng/ha/vụ do mật độ thả thấp hơn và năng suất thấp hơn. Tỷ suất lợi nhuận tôm sú đạt 0,54 lần, thấp hơn TTCT (0,99 lần). Chính vì lẽ đó người dân có xu hướng nuôi TTCT nhằm đạt được hiệu quả tài chính cao hơn. Theo quan điểm của nhà đầu tư, người nuôi có nhiều vốn hoặc sử dụng vốn 114 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II vay ngân hàng thì nên lựa chọn TTCT, dù mức độ rủi ro cao hơn nhưng hệ số quay vòng vốn nhanh (2,50 tháng) nên có thể nhanh chóng xoay vòng vốn và tái đầu tư (Nguyễn Thanh Long và Huỳnh Văn Hiền, 2012). Bảng 4: Hiệu quả tài chính Thông tin TTCT Tôm sú N=30 N=30 Tổng chi phí (triệu đồng/ha/vụ) 756,62±500,54a 581,37±380,22b Giá thành bình quân (1.000 đồng/kg) 63,62±32,64a 74,55±23,38b Giá bán bình quân (1.000 đồng/kg) 124,02±13,30a 197,84±38,82b Doanh thu (triệu đồng/ha/vụ) 1.493,84±720,27a 1.277,63±603,06b Lợi nhuận (triệu đồng/ha/vụ) 737,22±219,74a 696,26±222,82b Tỉ suất lợi nhuận 0,99±0,49a 0,54±0,23b Ghi chú: Các giá trị trên cùng một hàng (tôm sú và tôm thẻ) có các chữ các khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05) 3.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn đối tượng tôm nuôi 3.4.1. Các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi Tại địa bàn nghiên cứu, có 65% số hộ nuôi tôm đã từng chuyển đổi đối tượng tôm nuôi với số lần chuyển đổi trung bình là 1,72 lần/hộ.Để hạn chế rủi ro trong sản xuất, người nuôi thường chuyển đổi qua lại giữa hai đối tượng này. Tôm sú được lựa chọn để nuôi do các yếu tố như ít bệnh; ít rủi ro, hạn chế về vốn, và kinh nghiệm sẵn có (46,70 đến 76,70%). Đối với các hộ nuôi TTCT, lý do để lựa chọn canh tác đối tượng này do năng suất cao, thời gian nuôi ngắn và theo xu hướng hiện nay của vùng (Bảng 5). Giá cả có mức ảnh hưởng không lớn đến quyết định lựa chọn đối tượng tôm nuôi do thị trường luôn thay đổi, người nuôi không dự báo trước được nên họ ít quan tâm đến yếu tố này khi lựa chọn đối tượng tôm nuôi (13,30 – 16,70%). Trong tương lai, có 63,3% hộ nuôi tôm sú dự định chuyển sang nuôi TTCT trong khi chỉ có 30% số hộ đang nuôi TTCT dự định chuyển sang nuôi tôm sú. Kết quả này dự báo sẽ tiếp tục có sự lựa chọn đối tượng TTCT để nuôi nhiều hơn trong tương lai.Như vậy, việc phát triển nhanh đối tượng TTCT có khả năng gây mất cân bằng và khó quản lý cho các cơ quan chức năng. Bảng 5: Lý do lựa chọn đối tượng tôm nuôi TTCT (N=30) Tôm sú (N=30) Yếu tố chủ quan % Yếu tố chủ quan % - Có nhiều vốn 33,30 - Vốn ít 60,00 - Nhiều lao động gia đình 23,30 - Nhiều kinh nghiệm 46,70 - Nhiều kinh nghiệm 10,00 - Cần ít lao động 16,70 Yếu tố khách quan % Yếu tố khách quan % - Năng suất cao 83,30 - Ít dịch bệnh 76,70 - Thời gian nuôi ngắn 80,00 - Thời gian nuôi dài 33,30 - Xu hướng nuôi nhiều 53,30 - Kỹ thuật đơn giản 20,00 - Lợi nhuận cao 16,70 - Giá cao, ổn định 13,30 115TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II 3.4.2. Các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến việc lựa chọn đối tượng tôm nuôi Hàm hồi quy Binary Logistic là hàm thống kê được sử dụng để dự báo về khả năng lựa chọn đối tượng tôm nuôi của nông hộ.Do đây là hàm dựa vào các yếu tố thuộc về sản xuất để dự báo xác suất lựa chọn một đối tượng tôm nuôi nên các yếu tố thuộc về bên ngoài, không biết trước được hoặc chưa xảy ra (như nhu cầu thị trường, giá cả, giá thành,) không được đưa vào mô hình. Kết quả từ Bảng 6 có giá trị Sig. chung toàn mô hình là 0,000<0,05, cho thấy mô hình có ý nghĩa thống kê và khá phù hợp để ứng dụng dự đoán. Chỉ số 2-log likelihood không cao lắm thể hiện độ phù hợp khá tốt của mô hình tổng thể (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Hệ số tương quan Cox & Snell R Square cho thấy có 84,60% sự biến thiên của biến phụ thuộc đã được giải thích từ mô hình. Trong 30 hộ nuôi TTCT, mô hình dự đoán đúng 29 hộ (mức chính xác 96,67%), kết quả tương tự cho mô hình nuôi tôm sú, như vậy, mức độ chính xác chung của mô hình khá cao (96,67%). Bảng 7 thể hiện mối tương quan giữa các biến, trong đó các biến số độc lập X1; X2; X3 là các biến độc lập nội tại thuộc về sản xuất có ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi (có ý nghĩa thống kê với giá trị Sig < 5 %). Từ kết quả hồi quy, mô hình được viết như sau: Loge[P(Y=1)/P(Y=0)] = 1,213 + 2,10X1 –4,21X2 -2,04X3 Bảng 6: Kết quả kiểm định tính chính xác của mô hình Quan sát TTCT Đối tượng tôm nuôi Mức độ chính xác của kết quả dự báoTôm sú Đối tượng tôm nuôi TTCT 29 1 96,67 Tôm sú 1 29 96,67 Tỷ lệ chính xác dự báo chung của mô hình hồi quy tương quan Logistic 96,67 Bảng 7: Kết quả kiểm định mối tương quan giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc Các biến phụ thuộc Hệ số Beta S.E. Thống kê Wald Sig Exp (B) X1: Số năm kinh nghiệm (năm) 6,821 1,962 8,122 0,004 2,101 X2: Tổng diện tích nuôi (m 2) - 11,131 8,662 5,410 0,008 4,213 X3: Số người trong gia đình (người) - 0,256 0,041 3,520 0,019 0,085 Hệ số a0 1,213 3,779 1,161 0,775 2,039 Có 3 biến độc lập ảnh hưởng đến xác suất lựa chọn đối tượng tôm nuôi, bao gồm: (X1) Số năm kinh nghiệm (năm); (X2)Diện tích nuôi (m2); và (X3)số người trong gia đình (người). Biến X1 cho thấy các hộ nuôi tôm có số năm kinh nghiệm càng lâu thì sẽ lựa chọn nuôi tôm sú do đã quen với loài nuôi truyền thống này. Khi kinh nghiệm tăng lên một năm thì khả năng lựa chọn nuôi tôm sú tăng lên 2,10 lần (Exp(B) = 2,10). Điều này khá phù hợp với điều kiện thực tế khi ở Bến Tre, tôm sú là đối tượng nuôi ban đầu được người dân lựa chọn. Biến diện tích nuôi tôm X2 có quan hệ nghịch với tôm sú, những hộ có diện tích nuôi lớn thì có xu hướng chọn nuôi TTCT nhằm tận dụng được diện tích để xoay vòng vốn nhờ canh tác nhiều vụ trong năm và đạt lợi nhuận cao. Exp (X2) cho thấy khi diện tích tăng lên một m2 thì xác suất hộ đó chọn nuôi TTCT tăng lên 4,21 lần. Biến X3 thể hiện quan hệ thuận với đối tượng TTCT. Khi 116 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II số người trong gia đình tăng lên 1 người (đồng nghĩa với việc có nhiều lao động gia đình tham gia vào nuôi tôm) thì xác suất hộ đó nuôi TTCT tăng lên 2,04 lần để tận dụng lao động gia đình và do đối tượng này cần nhiều lao động và công chăm sóc hơn tôm sú. 3.5. Thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi TTCT và tôm sú ở tỉnh Bến Tre Hình 4: Thuận lợi chủ yếu của các hộ nuôi tôm Người nuôi tôm tại tỉnh Bến Tre có nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên và các điều kiện kinh tế xã hội.Kết quả điều tra cho thấy, những thuận lợi chủ yếu bao gồm người nuôi có kinh nghiệm lâu năm đối với đối tượng nuôi này (53,3% tổng số hộ); Đa số các hộ có nuôi tôm trên ao nhà, không phải thuê đất nên giúp giảm chi phí sản xuất (23 - 30%); TTCT là đối tượng kinh tế quan trọng tại địa phương, do đó người dân được tham gia nhiều lớp tập huấn về kỹ thuật nuôi (hơn 40%).Ngoài ra còn có một số thuận lợi quan trọng khác như vốn tự có, cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi tôm đã được hoàn thiện, chất lượng nguồn nước tốt và một số thuận lợi khác (Hình 4). Hình 5: Khó khăn chủ yếu của các hộ nuôi tôm Khó khăn lớn nhất của người nuôi tôm đó là dịch bệnh thường xuyên xảy ra, đặc biệt là đối tượng TTCT (96,72% tổng số hộ). Một số yếu tố thuận lợi bên trên lại là những khó khăn cho một số hộ khác như thời tiết, chất lượng nguồn nước, cơ sở hạ tầng hay vị trí ao (Hình 5). Điều này là do sự phát triển chưa đồng bộ giữa các vùng nuôi tôm trong tỉnh và còn phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng hộ cũng như nhận thức khác nhau của người dân. 117TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II IV. KẾT LUẬN Nuôi tôm thâm canh tại tỉnh Bến Tre tuy xuất hiện trễ hơn so với các tỉnh khác trong vùng ĐBSCL nhưng cũng là nghề truyền thống và mang lại giá trị kinh tế khác cao. Người dân đã có kỹ thuật nuôi khá tốt nên các yếu tố kỹ thuật không quá khác biệt giữa hai đối tượng, đặc biệt là về kết cấu ao nuôi do phần lớn người nuôi TTCT là từ người nuôi tôm sú chuyển sang. Một số chỉ tiêu kỹ thuật khác biệt đáng kể là mật độ nuôi, thời gian nuôi và năng suất đạt được. Quy mô nuôi TTCT cũng lớn hơn tôm sú.Nuôi TTCT mang lại hiệu quả tài chínhcao hơn tôm sú với lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận cao hơn, tuy nhiên, mức độ đầu tư và rủi ro cũng cao hơn. Phần lớn các hộ đều chuyển đổi qua lại giữa hai đối tượng nuôi ở hiện tại nhưng trong thời gian sắp tới người dân có xu hướng chuyển sang nuôi TTCT nhiều hơn.Kết quả hồi quy Binary Logistic chỉ ra có ba yếu tố sản xuất ảnh hưởng đến sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi bao gồm số năm kinh nghiệm, diện tích tôm nuôi và số người trong gia đình.Như vậy, các cơ quan chức năng có thể xem xét quy mô nuôi tôm hiện tại cũng như đặc điểm nhân khẩu của hộ nuôi để dự đoán sự lựa chọn đối tượng tôm nuôi của người dân. Từ đó cung cấp thông tin cho việc quản lý và đưa ra biện pháp can thiệp hay quản lý thích hợp nhằm cân bằng sự phát triển của hai đối tượng này tại địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đàm Thị Phong Ba, 2007. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ tôm sú ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận văn cao học chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp.Khoa Kinh tế và quản trị kinh doanh.Đại học Cần Thơ. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS - Tập 2. Nhà Xuất Bản Hồng Đức. - Trung tâm Xúc tiến đầu tư và khởi nghiệp, 2016. Bảng đồ hành chính tỉnh Bến Tre. view/Ban-do-quy-hoach-cac-Khu-cong- nghiep-4/ Truy cập ngày 07/12/2016. Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Nguyễn Thanh Toàn và Nguyễn Thị Kim Quyên, 2011. Phân tích chuỗi giá trị tôm sú (Penaneus monodon) ở Đồng bằng sông Cửu Long. Kỷ yếu hội nghị khoa học thủy sản lần 4 .Đại học Cần Thơ. Trang 524-536. Lê Xuân Sinh, Đỗ Minh Chung, Phan Thị Ngọc Khuyên và Từ Thanh Truyền, 2006. Tác động về mặt xã hội của hoạt động nuôi trồng thủy sản mặn lợ ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí khoa học, quyển 2, Đại học Cần Thơ. NACA, 2006. Evaluation of the impact of the Indian Ocean tsunami and US anti-dumping tuties on the shrimp farming sector of South and South-East Asia. 77pp. Nguyễn Sỹ Minh, 2012. Đánh giá hiệu quả sản xuất của các mô hình nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh Kiên Giang.Luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành nuôi trồng thủy sản, Khoa Thủy sản. Đại học Cần Thơ. Nguyễn Thanh Long và Huỳnh Văn Hiền, 2012. So sánh hiệu quả đầu tư mô hình tôm sú và TTCT ở Bến Tre. Tạp chí Thương mại thủy sản.Số 155. Nguyễn Thành Phước, 2005. Ảnh hưởng của mật đọ lên năng suất và hiệu quả kinh tế trong ao nuôi tôm thâm canh ở huyện Kiên Lương và thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy Sản, đại học Cần Thơ. Nguyễn Thanh Phương, Vũ Nam Sơn và Võ Văn Bé, 2008. Phân tích các khía cạnh kỹ thuật và kinh tế của mô hình nuôi tôm sú (Penaneus monodon) thâm canh rải vụ ở tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học Trường đại học Càn Thơ. Số chuyên đề thủy sản, quyển 2. Trang 157-167. Thế Đạt, 2011. Sản lượng tôm thẻ chân trắng ở Đồng bằng Sông Cửu Long vượt 57%. luong- tom-the-chan- t rang-o-DBSCL- vuot-57/201112/116022.vnplus. Truy cập ngày 14/04/2015. Tổng cục Thống kê, 2016. Số liệu thống kê Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản sơ bộ năm 2015. https://gso.gov.vn/default. aspx?tabid=717. Truy cập ngày 07/12/2016. Tổng cục Thủy sản, 2014. Tình hình sản xuất, xuất khẩu thủy sản 9 tháng đầu năm 2014. http:// www.fistenet.gov.vn/f-thuong-mai-thuy-san/a- xuat-nhap-khau/tinh-hinh-san-xuat-xuat-khau- 118 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II EFFICIENCIES AND PRODUCTION FACTORS WHICH AFFECT TO SELECTION OF SHRIMP SPECIES FOR INTENSIVE FARMING MODEL IN BEN TRE PROVINCE Nguyen Thi Kim Quyen1*, Tran Nhat Hoai1 ABSTRACT This study was conducted from December, 2014 to May, 2015 through interviewing 30 black ti- ger shrimp (BTS) farming households and 30 white leg shrimp (WLS) farming households of in- tensive system in order to evaluate technical-financial efficiencies as well as to find out produc- tion factors which effect to selection of shrimp species for culture of the households. The results show that scale of BTS farming was 10,210.23±7,204.52 m2/household, smaller than that of WLS (4,596.88±2,673.26 m2); stocking density of BTS was smaller but feed conversion ratio (FCR) was higher in comparison to WLS (corresponding numbers were 36.50 ind./m2 and 1.48 compared to 87.30 ind./m2 and 1.40) due to longer farming period. Productivity and survival rate of WLS reached 10.21 ton/ha/crop and 74.42%, higher than that of BTS (7.80 ton/ha/crop and 66.12%). Total production cost and net profit from WLS farming (756.62 and 581.37million VND/ha/crop, respectively) were also higher than that figures of BTS (737.22 and 696.26 million VND/ha/crop, respectively). WLS culture had higher risk ratio with 16.73% of farms losing, this figure in BTS being 5.34%. WLS was preferred for culture because of high productivity, short farming period and much farming trend. The result of Binary Logistic model illustrates that pond’s area, cultured experience and farmer’s ages were production factors which affected to choices of shrimp species for farming of the households. Keywords: Ben Tre, Binary Logistic, black tiger shrimp, efficiencies, technique-finance, white leg shrimp Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 25/11/2016 Ngày thông qua phản biện: 09/12/2016 Ngày duyệt đăng: 05/01/2017 1 College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University. * Email: ntkquyen@ctu.edu.vn thuy-san-9-thang-111au-nam-2014/, truy cập ngày 01/06/2016. Tổng cục Thủy sản, 2016. Ngành thủy sản tổng kết năm 2015. tin-tuc-su-kien/a-tin-van/nganh-thuy-san- tong-ket-cong-tac-nam-2015/. Truy cập ngày 07/12/2016.
File đính kèm:
- hieu_qua_va_cac_yeu_to_anh_huong_den_su_lua_chon_doi_tuong_t.pdf