Hiện trạng kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi cá chình (Anguilla marmorata) ở tỉnh Cà Mau
TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 02 năm 2016 đến tháng 04 năm 2016 thông qua phỏng vấn
trực tiếp 30 hộ nuôi cá chình ở tỉnh Cà Mau bằng biểu mẫu soạn sẵn nhằm đánh giá một số yếu tố
kỹ thuật và tài chính cũng như xác định những thuận lợi và khó khăn của mô hình nuôi cá chình
tại tỉnh Cà Mau. Kết quả cho thấy diện tích trung bình của các ao nuôi là 438±41,2 m²/ao, với mật
độ nuôi là 1,1±0,1con/m², cá chình giống được thả vào ao nuôi có kích cỡ trung bình 65,2±13,1 g/
con, cá được cho ăn chủ yếu bằng cá tạp sau thời gian nuôi 16,9 ± 4,2 tháng, trung bình cá đạt kích
cỡ 1,6±0,5 kg/con, với tỉ lệ sống trung bình đạt 92,5 ± 2,2%, năng suất trung bình cá chình thương
phẩm đạt 105±15,8 kg/100m². Kết quả cho thấy với chi phí sản xuất là 11,5±2,0 triệu đồng/100m²/
vụ, người nuôi có thu nhập 38,9±7,4 triệu đồng/100 m²/vụ, lợi nhuận trung bình đạt 26,5±6,9 triệu
đồng/100 m²/vụ. Tuy nhiên nghề nuôi cá chình cũng gặp một số khó khăn, nhất là cần vốn đầu tư
lớn và nguồn cá giống hạn chế do lệ thuộc vào giống tự nhiên và giá cao.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi cá chình (Anguilla marmorata) ở tỉnh Cà Mau
Số lao động trong gia đình (người) 2,6±0,1 2 4 Số lao động trong gia đình trung bình ở mức 2,6±0,1 người/hộ, dao động từ 2 đến 4 người ở mỗi hộ và có 100% số hộ nuôi được khảo sát là không thuê mướn kỹ thuật viên do thời gian sản xuất một đợt tương đối dài và nhiều hộ nuôi với quy mô nhỏ nên rất tốn chi phí nhân công cũng như kỹ sư, mặt khác cá chình là đối tượng dễ nuôi, ít bệnh, tỷ lệ hao hụt thấp, và chế độ ăn cũng đơn giản nên hầu hết chủ hộ nuôi chịu trách nhiệm về kỹ thuật nuôi và sử dụng lao động trong gia đình trong quá trình sản xuất là chủ yếu. Bảng 2: Ao nuôi cá chình của các nông hộ Nội dung Trung bình Thấp nhất Cao nhất Tổng diện tích NTTS của nông hộ (m²/hộ) 8.133±3.720 3.000 20.000 Tổng diện tích nuôi cá chình (m²/hộ) 4.720±2.850 1.000 13.000 Số ao nuôi cá chình (ao/hộ) 8,7±3,0 2 26 Số lượng ao lắng (ao/hộ) 2,8±1,2 1 7 Qua Bảng 2 cho thấy, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của mỗi nông hộ trung bình là 8.133±3.720 m²/hộ, dao động từ 3.000-20.000 m²/hộ, qua khảo sát cho thấy có 63,3%, tương ứng 19 hộ sử dụng diện tích sản xuất trên để nuôi kết hợp cá chình với cá bống tượng, hoặc tách rời hai đối tượng nuôi, tổng diện tích nuôi cá chình của mỗi nông hộ trung bình khoảng 4.720±2.850 m²/hộ, thấp nhất là 1.000 m²/hộ và cao nhất là 13.000 m²/hộ. Tổng diện tích nuôi cá chình chiếm 86,7%, cá bống tượng chiếm 13,3% trong tổng diện tích nuôi trồng thủy sản kết hợp của mỗi hộ nuôi. Số ao nuôi cá chình của mỗi hộ trung bình khoảng 8,7±3,0 ao/hộ nuôi, dao động từ 1-26 ao/hộ, số ao lắng mỗi hộ nuôi trung bình khoảng 2,8±1,2 ao/hộ, thấp nhất là 1 ao/hộ, cao nhất là 7 ao/hộ nuôi. So với diện tích của hộ nuôi tôm sú (3,73 ha/hộ) (Nguyễn Thanh Long và Nguyễn Thanh Phương, 2010) nên các hộ nuôi thường tận dụng hết diện tích để nuôi cá chình. 3.2. Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi cá chình Qua khảo sát cho thấy trung bình diện tích mặt nước của mỗi ao là 438±41,2 m²/ao, dao động từ 300 m²/ao đến cao nhất là 1.000 m²/ao, độ sâu mỗi ao trung bình khoảng 1,63±0,95 m, đa số độ sâu ao của mỗi hộ điều không chênh lệch quá nhiều so với giá trị trung bình. Mực nước ao cách bờ trung bình khoảng 0,57±0,02 m, pH nước đạt 7,46±0,11, Độ dày lớp bùn đáy đạt 17,1±0,41 cm, độ mặn trung bình khoảng 2,33±0,58‰, dao động từ 0-10‰ (Bảng 3). Kết quả khảo sát cho thấy diện tích ao nuôi trung 103TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 3: Đặc điểm ao nuôi cá chình được khảo sát Nội dung Trung bình Thấp nhất Cao nhất Diện tích mặt nước (m²/ao) 438±41,2 300 1.000 Độ sâu ao (m) 1,6±0,9 1,3 1,8 Mực nước ao cách bờ (m) 0,6±0,1 0,3 0,8 pH nước 7,5±0,1 7,0 8,5 Độ dày lớp bùn đáy (cm) 17,1±0,4 13 20 Độ mặn (‰) 2,3±0,6 0 10 bình cao hơn so với kết quả nghiên cứu Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải (2008) và thấp hơn kết quả khảo sát của Nguyễn Thanh Long và Trần Ngọc Hải (2014). Hầu hết các hộ nuôi đều cải tạo ao trước mùa vụ mới hoặc trước khi thả giống với các hình thức như sên vét ao để đảm bảo độ sâu thích hợp, hút hết lớp bùn đáy, bờ ao phải chắc chắn, không để nước rò rỉ vào ao cá để tránh cá làm hang và sổng thoát. Kết quả khảo sát cho thấy các hộ nuôi cá chình sử dụng vôi CaO để cải tạo với liều lượng trung bình khoảng 5-7 kg/100 m². Quá trình cải tạo ao kéo dài khoảng 7-10 ngày thì bắt đầu thả giống, hầu hết các hộ nuôi tập trung thả giống từ tháng 5 đến tháng 8 nhằm chủ động được nguồn nước ngọt cũng như nước mưa, mặt khác chủ động được nguồn con giống mua về cả về số lượng lẫn giá cả cũng thấp hơn so với những tháng khác. Bảng 4: Kích cỡ, mật độ nuôi và tỉ lệ sống của cá chình Nội dung Trung bình Thấp nhất Cao nhất Kích cỡ con giống (g/con) 65,2 ± 13,1 30 100 Giá con giống (triệu đồng/kg) 1,3 ± 0,1 1,2 1,6 Mật độ thả (con/m²) 1,1 ± 0,1 1 3 Tỉ lệ sống (%) 92,5 ± 2,16 80 95 Số lần thay nước (lần/vụ nuôi) 2,5 ± 0,2 1 3 Qua khảo sát, hầu hết các hộ nuôi đều chọn con giống với trọng lượng 30-100 g/con, chỉ có 6% hộ nuôi chọn kích cỡ con giống là 120 g/con nhằm rút ngắn thời gian nuôi, kích cỡ con giống trung bình là 65,2±13,1 g/con với mức giá trung bình là 1,3±0,1 triệu đồng/kg, dao động từ 1,2 đến 1,6 triệu đồng/kg tùy khối lượng con giống, nguồn thức ăn chủ yếu của cá chình là cá tạp, cá tạp được cắt nhỏ tùy theo cỡ cá nuôi. Với diện tích ao nuôi từ 300-500m² thì trung bình mật độ thả là 1,1±0,1 con/m², dao đông từ 1 đến 3 con/ m². Tỉ lệ sống trung bình đạt 92,5±2,2%. Mật độ thả và tỉ lệ sống trong nghiên cứu đều cao hơn so với nghiên cứu của Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải (2008); Nguyễn Thanh Long và Trần Ngọc Hải (2014). Qua khảo sát hầu hết các hộ nuôi đều nhận định cá chình thuộc đối tượng dễ nuôi, dễ thích nghi, tỉ lệ hao hụt thấp, trường hợp tỉ lệ hao hụt cao thì do nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng dẫn đến cá bệnh và chết hoặc do quá trình cải tạo ao không đúng kỹ thuật dẫn đến cá dễ thất thoát. 3.3. Khía cạnh tài chính của mô hình nuôi cá chình Qua khảo sát, ở Bảng 5 cho thấy trung 104 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 5: Chi phí khấu hao của mô hình nuôi cá chình (n=30) Nội dung Khấu hao (triệu đồng/100m²/vụ) Tỉ lệ (%) Chi phí đào ao 0,5 ± 0,1 59,3 Chi phí thuê đất 0,2 ± 0,1 25,7 Chi phí cơ sở trang thiết bị 0,1 ± 0,1 15,0 bình chi phí khấu hao của mô hình nuôi cá chình thương phẩm tại tỉnh Cà Mau là 0,8 triệu đồng/100 m²/vụ, bao gồm chi phí đào ao trung bình 0,5±0,1 triệu đồng/100 m²/vụ chiếm 59,3%, chi phí thuê đất khấu hao trung bình 0,2±0,1 triệu đồng/100 m²/vụ chiếm 25,7% còn lại là chi phí khấu hao cơ sở trang thiết bị là 0,1±0,1 triệu đồng/100 m²/vụ chiếm 15,0% trong tổng chi phí khấu hao. Theo Bảng 6, thời gian nuôi cá chình tại tỉnh Cà Mau trung bình là 16,9±4,2 tháng/vụ nuôi, dao động từ 13 đến 25 tháng, thời gian nuôi phụ thuộc vào kích cỡ của cá giống thả nuôi và tốc độ tăng trưởng của cá. Nếu thời gian nuôi dài, cá chậm phát triển lớn không điều thì phân loại và để dễ chăm sóc, giảm chi phí thức ăn. Trung bình kích cỡ thu hoạch cá chình là 1,6±0,5 kg/ con, dao động từ 0,9 đến 2,5 kg/con với giá bán cá thương phẩm là 0,4±0,1 triệu đồng/kg, dao động từ 0,3 đến 0,5 triệu đồng/kg tùy từng kích cỡ phân loại, mùa vụ, sức ép của thương lái. Trung bình mỗi 100m² ao nuôi cho sản lượng là 105±15,8 kg/100 m²/vụ; sản lượng thu hoạch phụ thuộc vào mật độ, cách chăm sóc, cho ăn của người nuôi. Chi phí trung bình cho một vụ nuôi cá chình là 11,5±2,0 triệu đồng/100 m²/vụ, dao động từ 7,3-19,2 triệu đồng/100 m²/vụ, cho doanh thu trung bình là 38,9±7,4 triệu đồng/100 m²/vụ. Lợi nhuận trung bình mỗi vụ đạt được khoảng 26,5±6,9 triệu đồng/100 m²/vụ, kết quả điều tra cho thấy không có hộ nào bị lỗ vốn. Tỉ suất lợi nhuận trung bình đạt 2,3±0,6 lần. Bảng 6: Một số chỉ tiêu tài chính của mô hình nuôi cá chình tại tỉnh Cà Mau Nội dung Trung bình Thấp nhất Cao nhất Thời gian nuôi (tháng/vụ nuôi) 16,9 ± 4,2 13 25 Kích cỡ thu hoạch (kg/con) 1,6 ± 0,5 0,9 2,5 Giá bán (triệu đồng/kg) 0,4 ± 0,1 0,3 0,5 Năng suất (kg/100 m²) 105 ± 15,8 58 160 Tổng chi (triệu đồng/100 m²/vụ nuôi) 11,5 ± 2,0 7,3 19,2 Tổng thu (triệu đồng/100 m²/vụ nuôi) 38,9 ± 7,4 21,5 75,2 Lợi nhuận (triệu đồng/100 m²/vụ) 26,5 ± 6,9 14,1 58,7 Tỷ suất lợi nhuận 2,3 ± 0,6 1,62 3,05 Trong cơ cấu chi phí biến đổi (Bảng 7), chi phí sản xuất biến đổi cho mô hình nuôi cá chình trung bình là 9,7 triệu đồng/100 m²/vụ nuôi, trong đó chi phí thức ăn trung bình khoảng 4,9 triệu đồng/100 m²/vụ, chiếm 50,1% trong cơ cấu chi phí, kế đến là chi phí con giống trung bình khoảng 4,3 triệu đồng/100 m²/vụ nuôi, chiếm 43,7% trong cơ cấu chi phí, các chi phí còn lại như chi phí cải tạo ao nuôi, chi phí nhiên liệu, chi phí nhân công chi phí thuốc hóa chất và các chi phí khác chiếm 6,2% còn lại trong cơ cấu chi phí tương đương khoảng 0,6 triệu đồng/100 m²/vụ (Hình 1). Nhìn chung, kết quả này là rất khả quan so với so với kết quả khảo 105TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 7: Chi phí biến đổi của mô hình nuôi cá chình Nội dung Trung bình ( triệu đồng/100 m²/vụ) Tỉ lệ (%) Chi phí thức ăn 4,9 ± 2,2 50,2 Chi phí con giống 4,2 ± 1,3 43,7 Chi phí cải tạo ao 0,2 ± 0,1 2,1 Chi phí nhiên liệu 0,2 ± 0,1 1,6 Chi phí nhân công 0,1 ± 0,1 1,3 Chi phí thuốc hóa chất 0,1 ± 0,1 0,7 Các chi phí khác 0,1 ± 0,1 0,5 Hình 1: Cơ cấu chi phí của mô hình nuôi cá chình sát mô hình nuôi cá chình tại tỉnh Cà Mau của Nguyễn Thanh Long và Trần Ngọc Hải (2014), đây là dấu hiệu tích cực cho mô hình nuôi cá chình thương phẩm tại tỉnh Cà Mau. Tuy nhiên kết quả này cho thấy chi phí thức ăn và chi phí con giống còn khá cao trong cơ cấu chi phí nên để tăng hiệu quả tỉ suất lợi nhuận của mô hình nuôi thì cần nghiên cứu ương giống cá chình tại địa phương, còn đối với người nuôi cần cố gắng giảm chi phí thức ăn tự nhiên, kết hợp và dần thay thế thức ăn nhân tạo trong quá trình sản xuất. 3.4. Những thuận lợi và khó khăn của nghề nuôi cá chình ở tỉnh Cà Mau Qua kết quả khảo sát ở Bảng 8 cho thấy mô hình nuôi cá chình thương phẩm trong ao đất ở tỉnh Cà Mau có nhiều thuận lợi được người nuôi đánh giá và chọn lọc lại theo thứ tự thấp dần như: Kỹ thuật nuôi đơn giản, dễ quản lý, tỉ lệ sống cao. Điều kiện tự nhiên thích hợp trên vùng nuôi nước lợ và nước ngọt. Khâu quản lí, cải tạo ao đơn giản, giá cá thương phẩm khá cao, đạt lợi nhuận lớn, tỉ lệ sống cao sản lượng thu hoạch lớn do cá chình thuộc đối tượng dễ nuôi, ít rủi ro, nguồn thức ăn tươi sống sẵn có, dễ đánh bắt hoặc mua tại địa phương với giá rẻ, thị trường tiêu thụ trong nước nói riêng và xuất khẩu rộng lớn. 106 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 8: Những thuận lợi của mô hình nuôi cá chình Nội dung N=30 % Xếp hạng Kỹ thuật nuôi đơn giản, dễ quản lí 27 90,0 1 Điều kiện tự nhiên thích hợp 23 76,7 2 Lợi nhuận cao 19 63,3 3 Ít rủi ro 16 53,3 4 Thức ăn dễ tìm, sẵn có 12 40,0 5 Thị trường tiêu thụ lớn 8 26,7 6 *Xếp hạng theo mức độ quan trọng của các thuận lợi đề cập: 1= rất thuận lợi.....6= rất ít thuận lợi hơn Bên cạnh những thuận lợi thì mô hình nuôi cá chình tại Cà Mau còn gặp nhiều khó khăn (Bảng 9), chủ yếu là giá con giống cao, còn nhiều hộ thiếu vốn đầu tư vào chi phí con giống nên mô hình nuôi còn nhỏ lẻ, không tận dụng hết diện tích nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó, thời gian nuôi dài, nguồn thức ăn chủ yếu là cá tạp nên chi phí thức ăn cho một vụ nuôi còn khá cao đồng nghĩa với lợi nhuận sẽ giảm đi, nguồn con giống không chủ động, còn phụ thuộc vào thị trường, giá cá thương phẩm có nhiều biến động theo mùa nên người dân chịu nhiều sức ép từ thương lái về giá, một số nhỏ hộ nuôi mới thành lập gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm trong quá trình sản xuất. Bảng 9: Những khó khăn của mô hình nuôi cá chình Nội dung N=30 % Xếp hạng Giá con giống cao 29 96,7 1 Thời gian nuôi dài 25 83,3 2 Chi phí thức ăn tự nhiên cao 23 76,7 3 Không chủ động được nguồn con giống 18 60,0 4 Bị thương lái ép giá 13 43,3 5 Kỹ thuật nuôi còn hạn chế 7 23,3 6 *Xếp hạng theo mức độ quan trọng của các khó khăn đề cập: 1= rất khó khăn .....6= rất ít khó khăn hơn IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1. Kết luận Hộ nuôi cá chình có tổng diện tích trung bình là 4.720±2.850 m²/hộ, diện tích ao nuôi trung bình là 438±41,2 m²/ao, độ sâu ao trung bình là 1,6±0,3 m/ao. Cá chình giống được thả nuôi chủ yếu từ tháng 5 đến tháng 8, trung bình thời gian cho một vụ nuôi cá chình thương phẩm là 16,9±4,20 tháng, kích cỡ con giống trung bình khoảng 65,2±0,5 g/con, mật độ thả trung bình là 1,1 con/m². Tỉ lệ sống đạt 92,5±2,2%, năng suất trung bình đạt 105±15,8 kg/100m². Chi phí bình quân cho một vụ nuôi khoảng 11,5±2,0 triệu đồng/100 m²/vụ và thu nhập trung bình khoảng 38,9±7,40 triệu đồng/100m²/ vụ, với lợi nhuận bình quân 26,5±6,9 triệu đồng/100 m²/vụ. Tỉ suất lợi nhuận đạt 2,3±0,6 Nghề nuôi cá chình thương phẩm tại tỉnh Cà Mau đạt được lợi nhuận tương đối cao, có tiềm năng mở rộng quy mô, bên cạnh đó cũng còn gặp nhiều khó khăn chủ yếu là vốn đầu tư 107TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II lớn và không chủ động được nguồn con giống vì vậy còn nhiều hộ nuôi sản xuất chưa thật sự hiệu quả. 4.2. Đề xuất Quy hoạch lại vùng nuôi nhằm ổn định đầu ra cho người dân, tập huấn, nâng cao trình độ kỹ thuật cho người nuôi. Cần nghiên cứu ương giống cá chình tại địa phương để chủ động được nguồn giống và giảm giá thành sản xuất. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Quốc Việt và Trần Ngọc Hải, 2008. Một số khía cạnh kỹ thuật và kinh tế của mô hình nuôi cá chình (Anguilla sp.) ở Cà Mau. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 2008 (2) 198-204. Nguyễn Thanh Long và Nguyễn Thanh Phương, 2010. Phân tích khía cạnh kinh tế và kỹ thuật của các mô hình nuôi thủy sản ven biển ở tỉnh Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 2010:14 222-232. Nguyễn Thanh Long và Trần Ngọc Hải, 2014. Các khía cạnh kỹ thuật và tài chính của mô hình nuôi cá chình hoa (Anguilla Marnorata) ở tỉnh Cà Mau. Tạp chí khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. 2014: 31 93-97. Tiêu Minh Luân, Lâm Ngọc Bửu, Lê Hoàng Bảo, Đào Bá Cường, 2014. Hiện trạng nuôi cá chình thương phẩm ở Cà Mau và Bạc Liêu. Báo cáo chuyên đề, Trường Đại học Cần Thơ STATUS OF TECHNICAL AND ECONOMICAL ASPECTS OF ELL (Anguilla marmorata) POND CULTURE IN CA MAU PROVINCE Ly Van Khanh1* ABSTRACT This study was conducted from February 2016 to April 2016 through interviewing 30 households in Ca Mau province. This study is to analysis technicial and economical aspects and to identify ad- vantages and disadvantages of the eel culture in ponds. The result showed that the average area of eel pond was 438±41.2 m² and stocking density of 1.08±0.01 ind/m². Fingerling size was 17.4±0.52 g/ind, the fish were fed with trash-fish. After culture period of 16.9±4.20 months, the eel reached 1.63±0.51 kg/ind with survival rate of 92.5±2.16%. The average yield was 105±15.8 kg/100 m². Total cost of farm eel was 11.5±2.03 million VND/100 m²/crop and gross return was 38.9±7.40 million VND/100 m²/crop and net return was 26.5±6.90 million VND/100 m²/crop. However, there were several challenges for the culture, especially high production cost and shortage of eel seed due to mainly relying on the wild caught with hight seed price. Keywords: Anguilla marmorata, Ca Mau, cost-benefit, techniques Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 25/11/2016 Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016 Ngày duyệt đăng: 05/01/2017 1 College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University. * Email: lvkhanh@ctu.edu.vn
File đính kèm:
- hien_trang_ky_thuat_va_tai_chinh_cua_mo_hinh_nuoi_ca_chinh_a.pdf