Hiện trạng khai thác và nuôi trồng cá sát sọc Pangasius macronema Bleeker, 1850 ở tỉnh Tiền Giang
TÓM TẮT
Nghiên cứu hiện trạng khai thác và nuôi trồng cá sát sọc Pangasius macronema Bleeker, 1850 ở
tỉnh Tiền Giang được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 11 năm 2019. Tổng cộng có 78 hộ hành nghề
khai thác với 8 loại hình ngư cụ khác nhau và 12 hộ nuôi cá sát sọc với 46 lồng bè neo đậu trên sông
Tiền, tỉnh Tiền Giang đã được phỏng vấn. Kết quả cho thấy cá sát sọc chỉ hiện diện ở đoạn đầu và
đoạn giữa của sông Tiền (từ huyện Chợ Gạo đến huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang), không có sự hiện
diện ở đoạn cuối của sông (cửa sông, vùng ven biển) và cá được bắt gặp quanh năm tập trung nhiều
nhất vào các tháng trong mùa lũ (tháng 7 – tháng 10). Ngư cụ khai thác cá sát sọc được ghi nhận có
hiệu quả cao nhất là Xếp kẹp (trung bình 23,05 ± 9,97 kg/ngày), sản lượng khai thác cá sát sọc đạt
khoảng 78,86 tấn/năm (mùa mưa 48,47 tấn/năm và mùa khô 30,39 tấn/năm). Cá sát sọc khai thác
được có chiều dài tương đối nhỏ, trung bình từ 7,7 ± 1,75 ÷ 9,97 ± 2,55 cm/con; không thấy có sự
hiện diện của nhóm cá có chiều dài từ 20 cm/con trở lên. Cá sát sọc hiện đang được nuôi bằng lồng
bè có nguồn giống từ tự nhiên, cá giống xuất hiện nhiều vào các tháng 7, tháng 8 hàng năm, đây
cũng là thời điểm thả giống tập trung của các hộ nuôi, kích cỡ cá khi thả là 148 ± 19 con/kg, sau
10 – 12 tháng nuôi cỡ cá thu hoạch đạt 16 ± 3 con/kg, với hệ số FCR = 3 ± 0,3. Có sự khác biệt về
tỷ lệ hao hụt trong quá trình nuôi giữa hai hình thức cá giống đã qua thuần dưỡng và chưa qua thuần
dưỡng, lần lượt là 30 – 35% và 65 – 70%.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng khai thác và nuôi trồng cá sát sọc Pangasius macronema Bleeker, 1850 ở tỉnh Tiền Giang
3 9,62 ± 2,66 14,15 ± 9,95 Lưới rê 11,17 ± 0,25 20,0 ± 1,00 12,16 ± 1 23,90 ± 5,15 12,49 ± 0,77 23,82 ± 2,18 13,02 ± 0,81 28,92 ± 7,09 Đăng 6,51 ± 1,02 4,66 ± 1,94 10,17 ± 3,03 18,21 ± 12,6 9,98 ± 2,62 16,07 ± 10,21 10,94 ± 2,33 19,68 ± 10,56 Trung bình 7,22 ± 1,62 6,56 ± 4,19 9,52 ± 2,89 14,93 ± 11,02 10,67 ± 2,44 18,56 ± 9,98 10,37 ± 2,65 17,38 ± 10,88 Cả sông Trung bình 7,7 ± 1,75 7,79 ± 4,69 9,06 ± 2,41 12,43 ± 8,57 9,97 ± 2,55 15,83 ± 9,65 9,67 ± 2,73 14,8 ± 10,55 Đoạn đầu Đoạn giữa Vị trí Ngư cụ Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Kết quả phân tích khối lượng trung bình tại Bảng 3. Thấy rằng, cá sát sọc thu được qua 4 đợt khảo sát đều có khối lượng nhỏ dao động trung bình từ 7,79 ± 4,69 – 15,83 ± 9,65 g/con. Trong đó, cá thể có khối lượng trung bình nhỏ nhất là 4,66 ± 1,94 g/con ở ngư cụ đăng được thu vào tháng 6, cá thể có khối lượng trung bình lớn nhất là 28,92 ± 7,09 g/con ở ngư cụ lưới rê được thu vào tháng 9. Khối lượng cá sát sọc khai thác được bằng ngư cụ te/xiệp ở đoạn đầu của sông qua các đợt khảo sát không có sự biến động lớn, nhưng ở đoạn giữa của sông thì có sự biến động theo xu hướng tăng dần khối lượng (6,98 ± 3,89 g/con vào tháng 6; 11,94 ± 10,02 g/con vào tháng 7; 18,23 ± 10,53 g/con vào tháng 8; 14,15 ± 9,95 g/con vào tháng 9). Đặc biệt ở ngư cụ te/xiệp thể hiện rõ xu hướng này (7,44±1,6 g/ con vào tháng 6; 8,76±2,76 g/con vào tháng 7; 10,51±2,47 g/con vào tháng 8; 9,62±2,66 g/con vào tháng 9). Kết quả phân tích khối lượng trung bình tại Bảng 3. Thấy rằng, hầu hết các cá thể cá sát sọc thu được qua 4 đợt đều có kích cỡ chiều dài nhỏ dao động trung bình từ 7,7 ± 1,75 – 9,97 ± 2,55 cm/con. Trong đó, cá thể có kích cỡ chiều dài trung bình nhỏ nhất là 6,51 ± 1,02 cm/con ở ngư cụ đăng được thu vào tháng 6, cá thể có kích cỡ chiều dài trung bình lớn nhất là 13,02 ± 0,81 cm/con ở ngư cụ lưới rê được thu vào tháng 9. Đặc biệt, trong cùng khoảng thời gian thì kích cỡ chiều dài trung bình của cá khai thác được ở đoạn đầu luôn nhỏ hơn ở đoạn giữa của sông, được thể hiện rõ nhất trên cùng một ngư cụ là te/xiệp (10,54 ± 5,97 cm/con so với 11,94 ± 10,02 cm/con vào tháng 7; 10,46 ± 6,89 cm/con so với 18,23 ± 10,53 cm/con vào tháng 8; 10,51 ± 8,72 cm/con so với 14,15± 9,95 cm/con vào tháng 9). Theo đó, cá sát sọc chỉ thu được ở vị trí đoạn đầu và đoạn giữa của sông qua 4 loại ngư cụ (te/xiệp, xếp kẹp, lưới rê, đăng), còn ở vị trí đoạn cuối của sông không thu được bất kỳ cá thể nào ở cả 4 loại ngư cụ (lưới rê, lưới kéo, đăng, rập xếp). Vì vậy, cần khuyến cáo người dân không khai thác hoặc khai thác hạn chế loài cá này trong thời gian sinh sản và phát triển của cá giống (tháng 6 – 7 hàng năm) nhằm bảo vệ và phát triển triển nguồn lợi thủy sản. 80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Hình 3. Biến động tần suất chiều dài cá. Qua Hình 3 cho thấy, tần suất chiều dài cá được thể hiện ở nhóm cá có chiều dài dưới 13 cm (97,57%) và nhóm cá có chiều dài từ 13 đến dưới 20 cm (8,43%), không xuất hiện tỉ lệ tần suất của nhóm cá có chiều dài từ 20 cm trở lên. Kết quả này khẳng định rằng, không có loại ngư cụ nào khai thác được cá có kích thước chiều dài lớn hơn 20 cm. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Trần Đắc Định và ctv., (2013), Mô tả cá sát sọc Pangasius macronema (Bleeker, 1850) là cá vây bụng có 6 tia, râu dài đến vây ngực, mắt lớn, 36-45 lược mang, dài thân đến 20 cm. 3.1.8. Biến động số lượng cá thể và sản lượng khai thác của mỗi loại ngư cụ qua các đợt khảo sát Kết quả khảo sát tại đoạn đầu và đoạn giữa của sông Tiền cho thấy có sự biến động rất rõ về số lượng cá thể cá sát sọc khai thác được. Trong đó, tại đoạn đầu số lượng cao nhất là vào tháng 6 (126 con), thấp nhất là tháng 8 (69 con). Cụ thể, số lượng cá thể khai thác của ngư cụ te/ xiệp lần lượt là 62 con (đợt 1), 52 con (đợt 2), 46 con (đợt 3) và 47 con (đợt 4); Ở ngư cụ xếp kẹp lần lượt là 64 con (đợt 1), 61 con (đợt 2), 41 con (đợt 4) và 23 con (đợt 3). Tại đoạn giữa số lượng cao nhất là vào tháng 9 (108 con), thấp nhất là tháng 7 (80 con). Cụ thể, số lượng cá thể khai thác của ngư cụ te/xiệp lần lượt là 65 con (đợt 4), 62 con (đợt 3), 61 con (đợt 1) và 23 con (đợt 2). Ở ngư cụ đăng lần lượt là 55 con (đợt 1), 31 con (đợt 4), 19 con (đợt 2) và 15 con (đợt 3). Đặc biệt ở ngư cụ lưới rê số lượng cá thể khai thác được có sự biến động theo xu hướng tăng dần qua các đợt khảo sát, cụ thể lần lượt là 3 con (đợt 1), 10 con (đợt 2), 11con (đợt 4) và 12 con (đợt 4) (Hình 4). Hình 4. Biến động số cá thể (con) ở các loại ngư cụ qua các đợt khảo sát tại đoạn đầu và đoạn cuối của sông. 81TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Điều đặc biệt là có sự khác biệt rất lớn về sự biến động sản lượng khai thác qua các đợt khảo sát giữa vị trí đoạn đầu và đoạn giữa của sông, cụ thể là 4.185g (đoạn đầu) và 5.353g (đoạn giữa). Tại đoạn đầu sự biến động không theo quy luật nhưng tại đoạn giữa của sông có biến động theo xu thế tăng dần sản lượng khai thác, cụ thể là 649 g (đợt 1), 1.194 g (đợt 2), 1.633 g (đợt 3) và 1.877 g (đợt 4). Trong đó, ở ngư cụ lưới rê đã phản ánh đúng theo xu hướng của sự biến động này, cụ thể lần lượt là 60 g (đợt 1), 239 g (đợt 2), 262 g (đợt 3) và 347g (đợt 4) (Hình 5). Hình 5. Biến động sản lượng khai thác (g) ở các loại ngư cụ qua các đợt khảo sát tại đoạn đầu và đoạn giữa của sông. 3.1.9. Ước tính tổng sản lượng khai thác Kết quả khảo sát 78 hộ ngư dân với 290 ngư cụ của 8 nhóm ngư cụ cho thấy rằng toàn sản lượng khai thác cá sát sọc ước tính đạt khoảng 78,86 tấn/năm, trong đó mùa mưa đạt 48,47 tấn/ năm và mùa khô đạt 30,39 tấn/năm. Ngư cụ có sản lượng khai thác cao nhất là te/xiệp với 26,77 tấn/năm và ngư cụ có sản lượng khai thác thấp nhất là chài với 0,63 tấn/năm (Bảng 4). Bảng 4. Tổng sản lượng khai thác tấn/năm của tất cả các loại hình ngư cụ. Ngư cụ Mùa mưa Mùa khô Cả năm Chài 0,39 0,24 0,63 Xếp kẹp 4,01 2,79 6,80 Rập xếp 0,54 0,39 0,93 Đáy 9,43 5,69 15,12 Te/Xiệp 17,22 9,55 26,77 Đăng 6,66 3,83 10,49 Lưới kéo 6,90 5,10 12,00 Lưới rê 3,32 2,80 6,13 Tổng 48,47 30,39 78,86 3.2. Hiện trạng nuôi trồng cá sát sọc 3.2.1. Số lao động và kinh nghiệm nuôi của hộ dân Mỗi hộ dân tham gia nuôi cá cần ít nhất 1 – 2 lao động. Trong đó phổ biến nhất là 2 người chiếm 83,33% tổng số hộ. Ngoài ra, có khoảng 25% tổng số hộ cần thuê thêm lao động để phụ tiếp việc nuôi cá. 82 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Số năm kinh nghiệm tham gia nuôi cá của hộ dân trung bình 9,5 ± 5,6 năm, dao động từ 1 – 18 năm, trong đó nhóm thể hiện tỉ lệ phần trăm cao nhất số năm kinh nghiệm về nuôi là nhóm từ 11 – 15 năm (41,67%). 3.2.2. Kết cấu lồng bè Trên địa bàn tỉnh Tiền Giang có 12 hộ nuôi với 46 lồng bè nuôi cá sát sọc, tập trung chủ yếu ở khu trung tâm thành phố Mỹ Tho. Thể tích trung bình của một lồng bè hiện hữu là 107 ± 20,24 m3, dao động từ 96 – 150 m3, lồng bè có kích thước phổ biến nhất là 8 x 4 x 3 m (Dài x Rộng x Cao). Khung bè được cấu tạo bằng sắt, xung quanh được bao phủ bằng lưới inox có kích cỡ mắt lưới là 1,5 cm2 đảm bảo cho sự an toàn và chắc chắn cho lồng bè trong suốt quá trình nuôi. Ngoài ra, trong giai đoạn đầu thả cá giống thì người nuôi còn sử dụng lưới nylon có kích thước mắt lưới nhỏ (0,5 cm2) bao quanh bè, nhằm không cho cá giống thoát ra (Bảng 5). Bảng 5. Thông tin kết cấu lồng bè. Stt Quy cách Thể tích bè (m3) Số lượng/ hộ (cái) Thể tích nuôi/ hộ (m3)Dài (m) Rộng (m) Cao (m) 1 9 5 3 135 4 540 2 9 5 3 135 2 270 3 8 4 3 96 2 192 4 8 4 3 96 2 192 5 8 4 3 96 2 192 6 8 4 3 96 7 672 7 8 4 3 96 2 192 8 8 4 3 96 2 192 9 8 4 3 96 3 288 10 8 4 3 96 1 96 11 8 4 3 96 8 768 12 10 5 3 150 11 1650 Nhỏ nhất 8 4 3 96 1 96 Lớn nhất 10 5 3 150 11 1650 Trung bình 8,33±0,65 4,25±0,45 3,00±0,00 107,00±20,24 4,00±3,00 437,00±438,31 3.2.3. Kỹ thuật nuôi Cá sát sọc được thả nuôi quanh năm, tùy thuộc vào điều kiện nguồn giống, vì con giống có nguồn gốc từ tự nhiên, chúng được khai thác và đánh bắt bằng ngư cụ te/xiệp là chính. Cá giống xuất hiện nhiều tập trung vào các tháng 7 và tháng 8 hàng năm, đây cũng là thời điểm thu gom và thả giống tập trung của các hộ nuôi. Kích cỡ giống thả trung bình 148 ± 19 con/kg, dao động từ 120 – 170 con/kg. Sau 10 – 12 tháng nuôi thì tiến hành thu hoạch cá thương phẩm, kích cỡ cá thu hoạch trung bình 16 ± 3 con/kg, dao động từ 12 – 20 con/kg. Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá trong vụ nuôi trung bình FCR = 3 ± 0,3, dao động 2,5 – 3,4. Chi phí sản xuất cho 1 kg cá bình quân 55.400 ± 3.000 đồng/kg, dao động 50.000 – 60.000 đồng/kg; lợi nhuận cho 1 kg cá bình quân 27.000 ± 7.100 đồng/kg, dao động 15.000 – 35.000 đồng/kg. Sản lượng thu hoạch bình quân là 58,47 ± 47,28 kg/m3, tùy theo kích thước lồng bè và số lượng cá thả nuôi ban đầu, 83TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II với tỷ lệ phần trăm hao hụt từ 30 – 35% (đối với cá đã qua thuần dưỡng) và từ 65 – 70% (đối với cá chưa qua thuần dưỡng). Đây là đối tượng có triển vọng phát triển trong tương lai, đặc biệt là tận dụng các lồng bè nuôi không hiệu quả đang để trống. Các bệnh thường gặp trong quá trình nuôi như xuất huyết, ghẻ lở, ký sinh trùng. Một khi các loại bệnh này bộc phát cá dễ bị chết nhanh. Chưa có các giải pháp điều trị bệnh cá này một cách hiệu quả ngoại trừ các biện pháp phòng bệnh là chủ yếu. Vì vậy, cần có nghiên cứu tìm nguyên nhân các bệnh thường gặp trên loài cá này để có biện pháp phòng trị bệnh phù hợp. IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết luận Cá sát sọc phân bố tự nhiên trên lưu vực từ đoạn đầu đến đoạn giữa của sông Tiền thuộc địa phận tỉnh Tiền Giang, cá xuất hiện trong sông quanh năm, tập chung nhiều nhất vào các tháng mùa lũ (tháng 6 – tháng 10). Trong tỉnh hiện có 12 hộ tham gia nuôi cá sát sọc với mô hình nuôi lồng bè, lợi nhuận cho 1 kg cá bình quân 27.000 ± 7.100 đồng/kg, sản lượng nuôi đạt bình quân là 58,47 ± 47,28 kg/ m3. Nên nhân rộng mô hình nuôi này, nâng cao năng suất, sản lượng. Cá sát sọc có triển vọng phát triển trong tương lai, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi trong điều kiện biến đổi khí hậu. Cá khai thác ngoài tự nhiên có khối lượng tương đối nhỏ trung bình 7,79 - 15,83 g/con; kích thước chiều dài cá dao động từ 4,7 - 15,7 cm/con. Tần suất xuất hiện nhóm cá có chiều dài dưới 13 cm chiếm ưu thế hơn với 97,57% so với nhóm cá có chiều dài từ 13 đến 20 cm với 8,43%, không có xuất hiện nhóm cá có chiều dài từ 20 cm trở lên. Đề xuất Đề tài được thực hiện trong 6 tháng nên chưa đánh giá đúng hết thực trạng nguồn lợi cá sát sọc ngoài tự nhiên, cần tiếp tục có thời gian nghiên cứu thêm trong nhánh sông và các kênh rạch của địa phương. Đề nghị nghiên cứu tìm nguyên nhân các bệnh thường gặp trên loài cá này để có biện pháp phòng trị bệnh phù hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoàng Yến, Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại cá nước ngọt Nam bộ. NXB Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội, 343 trang. Nguyễn Văn Thường và ctv., 2007. Khảo sát thành phần loài cá trơn họ Pangasiidae ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tập chí Khoa học Đại học Cần Thơ. Trang 301-312 Nguyễn Văn Thường, Hà Phước Hung, Lê Anh Kha và Đoàn Thị Dung, 2000. Species Composition and Distribution of Pangasiidae Family in the Mekong River Delta, South Vietnam. Final Report, Bogor-Indonesia May 2000. Asian Catfish Project, pp. 11 Thái Ngọc Trí, 2015. Nghiên cứu đa dạng sinh học khu hệ cá Đồng bằng sông Cửu Long và sự biến đổi của chúng do tác động của biến đổi khí hậu và sự phát triển kinh tế - xã hội. Luận án Tiến sĩ Sinh học. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Việt Nam. Trần Đắc Định và ctv., 2013. Mô tả định loại cá Đồng bằng sông Cứu Long, Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 174 trang. Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nhà xuất bản Trường Đại học Cần Thơ, Cần Thơ, 361 trang. Tài liệu tiếng Anh Cacot, P., Lazard, J., 2004. Domestication d’èspeces de poisssons-chats du Mékong de la famille des Pangasiidae. INRA Prod. Anim 17 (3): 195-198 Froese, R., 2006. Cube law, condition factor and weight–length relationships: history, meta‐ analysis and recommendations. Journal of Applied Ichthyology 22(4): 241- 253. Poulsen, A.F., K.G., Hortle, J., Valbo-Jorgensen, S., Chan, C.K., Chhuon, S., Viravong, K., Bouakhamvongsa, U., Suntornratana, N., Yoorong, T.T. Nguyen and B.Q. Tran., 2004. Distribution and Ecology of Some Important Riverine Fish Species of the Mekong River Basin. MRC Technical Paper No. 10. ISSN: 1683-1489 84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 16 - THÁNG 6/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II STATUS OF CAPTURE AND AQUACULTURE OF Pangasius macronema Bleeker, 1858 IN TIEN GIANG PROVINCE Huynh Van Duc1, Nguyen Phu Hoa1* ABSTRACT Study on capture and aquaculture of Pangasius macronema Bleeker, 1858 in Tien Giang province was carried out from June to November 2019. Total of 78 fishers were inteviewed with 8 kinds of fishing gears and 12 surveyed famers with 46 cages in the Mokong river. Results showed that P. macronema distributed at upper and middle river (Cho Gao to Cai Be district), and it was not caught at the end ò Mekong river (estuarine and coastal area), this species was occurred all year round and the peak season was thư flood season (July to October). Handle push net was the most effective for catching P. macronema with CPUE = 23.05 ± 9.97 kg/day/gear, estimated fish production was 78.86 ton/year (rainy season: 48.47 tons; dry season: 30.39 tons). The standard length size of fish was rather short with average of 7.7 ± 1.75 – 9.97 ± 2.55 cm/individual, no catching with length longer than 20 cm/individual. P. macronema has being cultured with cage culture, the fingerlings were come from wild capture source, from July to August with 148 ± 19 individuals/kg; after 10 – 12 months of grow-out days they reached 16 ± 3 individuals/kg with FCR = 3 ± 0,3. There were different death rates between stocking types of nursing stage application and without nursing stage application, with 30 – 35% and 65 – 70% respectively. Keywords: Pangasius macronema, size, capture, aquaculture. Người phản biện: PGS. TS. Trần Đắc Định Ngày nhận bài: 23/4/2020 Ngày thông qua phản biện: 15/5/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 Người phản biện: TS. Nguyễn Thanh Tùng Ngày nhận bài: 05/5/2020 Ngày thông qua phản biện: 20/5/2020 Ngày duyệt đăng: 25/5/2020 1 Ho Chi Minh University of Agriculture and Forestry * Email: phuhoa@hcmuaf.edu.vn
File đính kèm:
- hien_trang_khai_thac_va_nuoi_trong_ca_sat_soc_pangasius_macr.pdf