Hiện trạng khai thác thủy sản ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên
Tóm tắt
Nguồn lợi thủy sản trên đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên tương đối đa dạng và phong phú.
Nhưng hiện nay số hộ, ngư cụ, nghề hoạt động khai thác quá mức; nguồn lợi sinh vật và điều
kiện sống của các loài thủy sản trong đầm đang bị suy giảm nghiêm trọng. Chính vì vậy, áp lực
khai thác lên diện tích mặt nước đầm là rất lớn, cần phải có những giải pháp cấp bách quản lý
chặt chẽ để duy trì nguồn lợi và bảo vệ môi trường đầm cho phát triển bền vững.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Hiện trạng khai thác thủy sản ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiện trạng khai thác thủy sản ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên
- Cửa hom có tác dụng dẫn cá vào trong đăng đồng thời hạn chế cá quay trở ra. - Lưới chuồng là nơi nhốt cá sau khi đã vào đăng. Năng suất trung bình mỗi một vàng đăng khoảng 0,05 - 0,15 kg tôm, cá mỗi ngày. Hàng năm, trên đầm Ô Loan sản lượng nghề đăng đạt tới 16 tấn (bảng 4.4). Nghề đáy Đáy là ngư cụ dùng để khai thác các loài thủy sản theo nguyên lý lọc nước lấy thủy sản, nghề này dựa vào con nước dòng của thủy triều, kết hợp với dòng chảy sông từ trong đầm ra biển hoặc sự dâng lên của thủy triều. Vì nghề đáy hoạt động tùy con nước, nên ngư dân sống về nghề này làm việc quanh năm, hoạt động chủ yếu vào ban 82 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN đêm, lúc con nước ròng chảy mạnh, cá mới “đóng” nhiều. Mùa Xuân Hè con nước ròng mạnh nhất vào lúc 2 - 4 giờ sáng. Mùa Thu Đông con nước sớm hơn thường vào lúc 10 - 12 giờ khuya. Những ngày đêm trong tháng khai thác được nhiều tôm, cá là ngày “chính nước’’, thường từ ngày mồng một đến ngày mồng sáu và từ mười lăm đến hai mươi âm lịch hàng tháng có nước chảy mạnh. Các ngày khác trong tháng dòng chảy chậm nên ít cá đóng hơn. Một vàng đáy có dạng như cái vợt phóng đại gồm hai miệng. Miệng dưới là nơi chứa tôm cá, miệng trên là nơi tôm cá bị dòng nước cuốn vào. Phần miệng dưới thường là một giỏ mây bịt đáy. Chu vi của miệng trên mỗi vàng đáy đo được 32 sải (mỗi sải trung bình đạt 1,5 m); còn miệng dưới có đường kính trung bình 16 cm. Khoảng cách thân của hai miệng sải dài 18 sải, có cấu trúc lưới khác nhau. Một phần ba thân trên có mắt lưới 9 mm, một phần ba thân giữa 7 mm và một phần ba thân cuối 6 mm. Riêng phần miệng dưới có mắt lưới nhỏ nhất khoảng 1 mm. Như vậy nghề đáy cũng đánh bắt luôn cả cá và tôm nhỏ. Đáy thường đón tôm, cá khi thủy triều lên, xuống, lúc triều đứng thu miệng dưới đáy lấy tôm cá lên thuyền hoặc thu cả đáy nếu không muốn hoạt động tiếp. Năng suất trung bình mỗi một vàng đáy khoảng 0,06 - 0,17 kg tôm, cá mỗi ngày. Hàng năm, trên đầm Ô Loan sản lượng nghề đáy đạt tới 21 tấn (bảng 4.4). 4.1.4. Thành phần lao động tham gia khai thác tại đầm Thành phần lao động tham gia khai thác tại đầm có trình độ học vấn khá thấp 56,11% trình độ cấp I, trình độ cao nhất là cấp III chỉ chiếm 3,28% (hình 4.1). Phần lớn lao động khai thác tại đầm không được đào tạo về nghề. Ngư dân chỉ khai thác theo bản năng, kinh nghiệm, sự học hỏi từ thế hệ đi trước. Chính điều này đã dẫn tới những hạn chế, khó khăn trong kỹ thuật, thời gian, ngư cụ đánh bắt; và những hướng dẫn, tập huấn của uỷ ban nhân dân xã, uỷ ban nhân dân huyện đến với ngư dân. 56,11 40,61 3,28 Chưa phổ cập tiểu học Cấp I Cấp II Cấp III Trường dạy nghề Trung cấp Cao đẳng Đại học Lao động tham gia khai thác tại đầm chủ yếu có độ tuổi 45 - 60 tuổi 43,23% và 18 - 45 tuổi 40,61%; độ tuổi dưới 18 khai thác tại đầm rất ít 3,28% (hình 4.2). Số lao động được phỏng vấn là những người có kinh nghiệm đi đánh bắt từ 10 - 15 năm. Hình 4.1. Tỷ lệ trình độ học vấn thành phần lao động KT tại đầm năm 2015 TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 83 3,28 40,61 43,23 12,88 Dưới 18 tuổi 18-45 tuổi 45-60 tuổi Trên 60 tuổi 4.1.5. Năng suất, sản lượng khai thác Giai đoạn 2010 - 2015, sản lượng khai thác trên đầm ngày một gia tăng năm 2010 là 250 tấn/năm, và 2015 đạt 340 tấn/năm. Số lượng nghề tăng lên 263 ngư cụ, cụ thể năm 2010 là 6.430 ngư cụ đến 2015 là 6.693 ngư cụ; cường độ khai thác cao 2010: 700 lần/năm; 2015: 900 lần/năm nhưng năng suất lại giảm 2010 năng suất tối đa 2,5 kg/ngư cụ/ngày; 2015: 1,5 kg/ngư cụ/ngày (bảng 4.5). Bảng 4.5. Năng suất, sản lượng KT ở đầm Ô Loan từ năm 2010 - 2015 STT Năm Ngư cụ Tần số hoạt động (lần/năm) Năng suất (kg/ngư cụ/ngày) Sản lượng (tấn) 1 2010 6.430 750 0,5 - 2,5 250 2 2011 6.420 750 0,5 - 2,5 260 3 2012 6.740 800 0,5 - 1,5 300 4 2013 6.682 950 0,5 - 1,5 350 5 2014 6.673 950 0,5 - 2,0 370 6 2015* 6.693 900 0,5 - 1,5 340 (Nguồn: Điều tra 2015* và báo cáo KT-XH các xã quanh đầm Ô Loan) Sản lượng năm 2015 suy giảm so với năm 2014 là 30 tấn/năm, từ 370 tấn/năm còn 340 tấn/năm. Theo ngư dân đến năm 2015, hiện tượng cát từ biển đưa vào đã tích tụ lại phía cửa đầm rất lớn, chính vì vậy đã xảy ra hiện tượng bồi lấp cửa đầm (nơi lưu thông giữa đầm và biển). Hơn nữa, theo ngư dân “nếu như năm nào xảy ra mưa, lũ thì năng suất, sản lượng khai thác sẽ gia tăng do mưa, lũ làm gia tăng lượng nước trong đầm, khai thông cửa, xảy ra sự trao đổi, sự di chuyển của một số loài hải sản, sẽ làm tăng năng suất và sản lượng”. Vào mùa khô, mực nước trong đầm giảm thấp, cửa bị bồi lấp, mức độ ô nhiễm nguồn nước đầm do nước thải của nuôi trồng thủy sản (33,19% số phiếu trả lời), đưa đến sự suy giảm nguồn lợi trong đầm. Khi nghề nuôi tôm phát triển ở đầm, việc sử dụng các loại thuốc, hóa chất xử lý ao nuôi đã ảnh hưởng đến cân bằng sinh thái và sự phát triển tự nhiên của nguồn lợi. Trong khi đó, một thời gian dài cửa Tân Quy bị bồi lấp, làm hạn chế việc trao đổi nước giữa đầm với biển nên môi trường nước không ổn định. Đây là điều báo động Hình 4.2. Tỷ lệ % độ tuổi của thành phần lao động KT tại đầm năm 2015 84 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN cho các nhà quản lý nghề cá phải sớm có những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát triển nguồn lợi cũng như duy trì sự phát triển ổn định của hệ sinh thái đầm. Trong giai đoạn 2010 – 2015, theo nhận định của ngư dân nguồn lợi đánh bắt ở trong đầm không còn phong phú như trước, một số loài có giá trị kinh tế như sò huyết, lịch huyết, cá chẽm, cá mòi, ngày càng hiếm gặp, kích thước các loài đánh bắt ngày càng có xu hướng nhỏ hơn. Sự biến mất hoặc hiếm gặp của sò huyết, lịch huyết có 79,04% ngư dân nhận định, sản lượng đánh bắt cá đục, cá chẽm, cá lỵ, cá mòi, cá hồng, sò, điệp cũng giảm đi rất nhiều so với trước đây. Bảng 4.6. Thống kê năng suất, sản lượng khai thác thủy sản tại đầm so với 5 năm trước Ý kiến trả lời Năng suất Sản lượng Số phiếu Tỉ lệ % Số phiếu Tỉ lệ % Cao hơn 31 6,77 50 10,9 Không đổi 57 12,45 67 14,6 Thấp hơn 352 76,86 306 66,9 Không biết 18 3,92 35 7,6 (Nguồn: Từ phiếu điều tra, 2015) Theo ngư dân năng suất và sản lượng khai thác hiện nay so với 5 năm trước là thấp hơn. Có 76,86% ý kiến ngư dân đồng ý năng suất giảm, và 66,09% hộ đồng ý sản lượng thấp hơn. Nguyên nhân chủ yếu là cửa đầm bị bồi lấp; môi trường đáy đầm ô nhiễm; khai thác bằng các ngư cụ hủy diệt. Tuy nhiên, có 6,77% số phiếu trả lời năng suất cao; và 10,9% lựa chọn sản lượng cao tại các Xã An Hòa, An Hiệp do vùng đầm thuộc các xã năm nay có xuất hiện tôm đất, cá rô phi (bảng 4.6). 4.2. Giải pháp phát triển bền vững khai thác thủy sản tại đầm 4.2.1. Khai thác hợp lý Khai thác hợp lý nguồn lợi thủy sản là lấy đi một phần nguồn lợi, tương đương với sự gia tăng hàng năm của chúng, không gây tình trạng sinh vật mất khả năng khôi phục lại số lượng trong quần thể, đồng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh tế cao cho sản xuất. Ngoài ra, trong ngư dân cần phải tuân thủ nghiêm ngặt Thông tư số 01/2000/TT- BTS ngày 28/4/2000 của Bộ Thủy Sản về kích thước tối thiểu, mắt lưới cho phép khai thác và Quyết định 1210/QĐ-UBND ngày 15/07/2013, vùng, ngư cụ, thời gian khai thác. Về lao động: Hiện nay có 877 hộ dân tham gia khai thác tại đầm, bình quân 01 hộ có từ 3 - 4 lao động hoạt động cố định trong 1,3 ha là quá nhỏ. Do vậy, cần giảm số hộ tham gia hoạt động khai thác và phân bố lại lực lượng này phù hợp với tiềm năng khai thác của đầm. Có thể chuyển đổi lao động khai thác thủy sản dư thừa sang nghề khai thác xa bờ đối với các hộ thuộc 02 xã An Hòa, An Hải, hỗ trợ kinh phí theo Quyết định 289/QĐ-TTg ngày 18/03/2008; Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010; Quyết định số 39/2011/QĐ-TTg ngày 11/7/2011 và Quyết định số 38/2013/QĐ- TTg ngày 26/6/2013 về sửa đổi, bổ sung Quyết định số 48/2010/QĐ-TTg ngày 13/7/2010. Hoặc chuyển đổi sang các nghề khác như nuôi trồng thủy sản biển, dịch vụ, phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, đảm bảo sinh kế cho họ. Về ngư cụ: Năm 2015 toàn đầm có tổng 6.693 ngư cụ với chài 470 chiếc, lưới 1.550 tấm, đăng 1032 vàng, đáy 80 vàng và chấn 3.561 vàng. Tuy nhiên, diện tích mặt nước khai thác tự nhiên còn khoảng 1.000 ha, trong đó nghề cố định đáy chiếm 0,8 ha, chấn 300 ha, đăng 361 ha. Còn lại khoảng TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 85 338 ha là ngư trường hoạt động của 470 chiếc chài, 1.550 tấm lưới và diện tích đường đò với chiều rộng 30 m. Chính vì vậy, áp lực khai thác ngư cụ lên diện tích mặt nước đầm là rất lớn, cần phải quản lý chặt chẽ không phát triển thêm các nghề. Về thuyền bè: Số lượng thuyền thủ công 962 chiếc, thuyền máy 38 chiếc; mật độ hoạt động trên đầm khá cao, nhất là vào thời kỳ mùa khô, lượng nước trong đầm thấp nên phải chuyển số lượng thuyền máy đang hoạt động trên đầm và hỗ trợ kinh phí để họ tham gia khai thác vùng khơi. Như vậy giảm được tiếng ồn, ô nhiễm dầu do sự rò rỉ xăng nhớt, thau rửa của thuyền máy, đồng thời số hộ khai thác tại đầm cũng từ đó giảm theo. Về thời vụ: Khai thác trong đầm diễn ra quanh năm với 3.561 vàng chấn, 80 vàng đáy, 1.550 tấm lưới, 1.032 vàng đăng, 470 chiếc chài, hoạt động ngày, đêm cả trong mùa mưa và mùa khô. Tuy nhiên thời kỳ mùa khô trùng với thời gian sinh sản của các loài thủy sản. Do vậy, địa phương cần quy định mùa vụ khai thác cụ thể với một số loài thủy sản. Đồng thời, khoanh vùng khu vực được xem là nơi sinh sản, nuôi dưỡng con non như các bãi cỏ nước, cửa các sông đổ vào đầm, cửa đầm... Tạm ngừng khai thác đối với nghề đăng, chấn đảm bảo cho sự tái sản xuất của các đàn cá, động vật thủy sinh, bảo vệ các loài quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng xử lý nghiêm khắc hộ ngư dân khai thác vi phạm Thông tư số 01/2000/TT- BTS ngày 28/4/2000 của Bộ Thủy Sản và Nghị định số 103/2013/NĐ-CP ngày 12/09/2013 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản. 4.2.2. Nâng cao nhận thức cộng đồng Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức cho ngư dân về tầm quan trọng của nguồn lợi đã và đang tiến hành khá thường xuyên. Nhưng hình thức tuyên truyền chưa được phong phú, đa dạng, sự phối kết hợp giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các cơ quan thông tin tuyên truyền ở địa phương chưa chặt chẽ đồng bộ, thiếu sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Vì vậy, hiệu quả của công tác tuyên truyền mang lại chưa cao. Để gia tăng hiệu quả công tác tuyên truyền đến với ngư dân, cần thực hiện một số vấn đề sau: - Phòng Nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi Thuỷ sản tổ chức tập huấn nâng cao nhận thức cho ngư dân về lợi ích của việc bảo vệ nguồn lợi, môi trường sống các loài thuỷ sản tại đầm. - Giáo dục trực tuyến: Xây dựng các chương trình truyền thông về công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tại đầm trên các phương tiện thông tin đại chúng như: Báo, đài Phát thanh, đài truyền hình, đài truyền thanh ở địa phương, cần đưa nội dung giáo dục về tầm quan trọng công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản và môi trường sống. In ấn, phát hành các tranh, ảnh, áp phích, tài liệu để cổ động tuyên truyền về bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đưa công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thuỷ sản vào chương trình giáo dục phổ thông của các trường. - Nhân rộng mô hình: Địa phương cần phối hợp với các trường, viện, cơ quan nghiên cứu, đào tạo chuyên ngành thuỷ sản, thực hiện các đề tài liên quan đến điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, chuyển giao các kết quả nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn. Nhân rộng kết quả nghiên cứu sản lượng khai thác chính, nhân rộng các mô hình khai thác gắn với quản lý dựa vào cộng đồng để bảo vệ nguồn lợi, tạo sinh kế bền vững. Phối hợp với Sở Khoa học Công nghệ và chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu 86 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN khoa học ở đầm Ô Loan (đã được thực hiện trong những năm gần đây) để tổ chức triển khai các nội dung vào thực tế. 5. Kết luận và đề nghị Hiện nay, trên đầm có 5 loại nghề đang hoạt động khai thác tự nhiên là: chài, lưới, đăng, đáy và chấn. Trong đó, nghề chấn có số lượng lớn nhất 3561 vàng; nghề chài 470 chiếc, lưới 1.550 tấm, đăng 1.032 vàng và nghề đáy có số lượng ít nhất 80 vàng. Trong giai đoạn 2010 - 2015, sản lượng khai thác tăng cụ thể: năm 2010 đạt 250 tấn đến năm 2015 tăng lên 340 tấn, nhưng năng suất khai thác có chiều hướng suy giảm 2010: 2,5 kg/ngư cụ/ngày; đến năm 2015 còn 1,5 kg/ngư cụ/ngày. Điều đó chứng tỏ nguồn lợi thủy sản đang suy giảm. Nguồn lợi thủy sản ở đầm bị suy giảm một phần cũng do sự lưu thông giữa đầm và biển bị hạn chế. Do vậy, cần khơi thông cửa đầm để tăng cường sự trao đổi nước giữa đầm và biển, tạo môi trường sống tốt nhất cho các loài hải sản TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Dự thảo báo cáo (2015), Quy hoạch khai thác thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá vùng ven biển tỉnh Phú Yên đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, Phú Yên. [2] Nguyễn Thị Phi Loan, Dương Thị Oanh (2014), “Tình hình khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên”, Tạp chí Khoa học – Đại học Phú Yên, (số 5), tr 70-81. [3] Lê Thị Nguyện, Nguyễn Bắc Giang (2005), Tình hình khai thác nguồn lợi thủy sản vùng ven biển bắc Hải Vân và những hệ quả khi xây dựng khu bảo tồn biển Sơn Chà, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về đầm phá Thừa Thiên Huế, tr:406-414, Huế. [4] Ủy ban nhân dân xã An Ninh Đông (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kinh tế - xã hội, UBND xã An Ninh Đông. [5] Ủy ban nhân dân xã An Hải (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kinh tế - xã hội, UBND xã An Hải. [6] Ủy ban nhân dân xã An Hòa (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kinh tế - xã hội, UBND xã An Hòa. [7] Ủy ban nhân dân xã An Hiệp (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kinh tế - xã hội, UBND xã An Hiệp. [8] Ủy ban nhân dân xã An Cư (2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015), Báo cáo kinh tế - xã hội, UBND xã An Cư. Abstract The current realities of fisheries in O Loan lagoon, Phu Yen province The fishery resources in O Loan lagoon, Phu Yen province is quite diverse and abundant. But they have been currently overexploitated by a large number of local residents; Due to this problem, the biological resources and habitats of the aqua species in the lagoon have been severely reduced. Therefore, the exploitation pressure on the water surface area is now on an alarming rate, which requires urgent measures to be taken for effective management on maintaining the resources and environmental protection for sustainable development of the lagoon. Key words: Fisheries resources, aqua exploitation, O Loan lagoon
File đính kèm:
- hien_trang_khai_thac_thuy_san_o_dam_o_loan_tinh_phu_yen.pdf