Giải pháp nuôi tôm trong mô hình luân canh tôm lúa ở vùng bán đảo Cà Mau
TÓM TẮT
Thiết kế hệ thống công trình nuôi phù hợp với nuôi tôm vào mùa nắng và trồng lúa vào mùa mưa là
cần thiết cho vùng bán đảo Cà Mau. Kết quả nghiên cứu được đúc kết từ những kết quả thực hiện
mô hình tôm-lúa (T-L) trên những vùng sinh thái khác nhau của vùng bán đảo Cà Mau từ năm 2011
đến 2013 và kết quả phân tích số liệu điều tra trực tiếp 170 hộ và kết quả tổng hợp từ nhiều nguồn
tài liệu, số liệu, báo cáo có liên quan đến mô hình T-L đưa ra một số giải pháp kỹ thuật nuôi tôm
trong mô hình luân canh T-L ở vùng bán đảo Cà Mau như sau: Để giảm rủi ro trong canh tác T-L,
cân bằng diện tích nuôi tôm vào mùa nắng và trồng lúa vào mùa mưa, nâng cao năng suất T-L và
hướng tới khai thác bền vững của mô hình, cần thiết kế mở rộng thêm mương bao và mương bên
trong vuông, đảm bảo tỷ lệ diện tích mương/diện tích vuông từ 20-30 %; độ sâu mức nước trên trảng
từ 0,5-0,6m và ở mương đảm bảo từ 1,2-1,4m. Việc thiết kế mới ao nuôi bán thâm canh (BTC) dùng
để ương hoặc nuôi BTC là cần thiết, góp phần nâng cao nâng suất, hiệu quả kinh tế và tính bền vững
mô hình tôm lúa hiện nay; trong đó, tỷ lệ diện tích ao BTC chiếm từ 5-10% là phù hợp cho vùng
Kiên Giang và chiếm từ 15-30 % là phù hợp cho vùng Cà Mau và Bạc Liêu. Số lần thả giống nuôi
QCCT từ 2-3 lần/vụ với tổng mật độ 3-3,5 con/m2 (lần đầu 1,5 con/m2; hai lần sau 0,5-1 con/m2)
là phù hợp điều kiện hiện nay của người dân canh tác mô hình T-L; và mật độ thích hợp để người
dân quản lý trong mô hình nuôi ao trong điều kiện hiện nay là từ 10-15 con/m2. Trong canh tác nuôi
tôm cần áp dụng triệt để và nghiêm ngặt các giải pháp kỹ thuật như chọn tôm giống, thuần hóa tôm
giống, thay nước có kiểm soát, sử dụng vôi, phân, dolomite, zeolite, sử dụng chế phẩm vi sinh định
kỳ và quản lý thức ăn, quản lý môi trường, quản lý sức khỏe tôm để có kế hoạch điều chỉnh kịp thời.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp nuôi tôm trong mô hình luân canh tôm lúa ở vùng bán đảo Cà Mau
. Giải pháp về thu hoạch Đối với nuôi QCCT sử dụng các lú thưa đặt trong mương để thu tỉa để thu tôm đạt kích cỡ thương phẩm, sử dụng khoảng 10 lú thưa cho mỗi ha. Đến cuối vụ đặt lú có mắt lưới nhỏ ở cống và xổ nước để thu toàn bộ. Đối với ao nuôi BTC thì thu họach một lần. Trước tiên xả bớt nước trong ao nuôi, sau đó dùng lưới kéo để thu hoạch tôm. Khi tôm còn ít thì bơm nước và thu hoạch thủ công. IV. THẢO LUẬN Để giảm rủi ro trong canh tác T-L, cân bằng diện tích nuôi tôm vào mùa nắng và trồng lúa 65TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 vào mùa mưa, nâng cao năng suất T-L và hướng tới khai thác bền vững của mô hình, việc thiết kế thêm hệ thống mương bên trong vuông hay mở rộng thêm mương bao là cần thiết. Mục tiêu là để tạo thêm nhiều vùng trú ẩn cho tôm khi môi trường không thuận lợi, tôm sẽ dễ dàng trú ẩn ở mương. Hơn nữa, theo Thiều Lư và ctv., (2010) cho thấy năng suất tôm nuôi trong các vuông nuôi QCCT tăng theo tỷ lệ diện tích mương trên diện tích vuông, tác giả nhận định muốn nâng cao năng suất tôm nuôi cần phải nâng cao tỷ lệ này. Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv., (2004) quy chuẩn về thiết kế ruộng canh tác T-L với tỷ lệ mương bao chiếm 25-30% là hợp lý về tính bền vững của mô hình T-L. Mặc dù qua phân tích thống kê trong mô hình hồi quy đa biến (Nguyễn Công Thành, 2013a) cho thấy không có mối tương quan rõ ràng về tỷ lệ diện tích mương/vuông nhưng với mức độ quan tâm kỹ hơn như hiện nay thì nhóm hộ có tỷ lệ diện tích mương/tổng diện tích mô hình vượt quá 20% có năng suất và lợi nhuận tôm tốt hơn. Tương tự, khi phân tích ý nghĩa mối tương quan giữa tỷ lệ mương/vuông với năng suất lúa cho thấy tỷ lệ này ở khoảng 20-30% cho năng suất và lợi nhuận lúa tốt hơn. Từ những phân tích trên cho thấy, để nâng cao nâng suất và hiệu quả mô hình T-L, khi thiết kế cần chú ý đến vị trí và điều kiện của từng vuông, điều kiện kinh tế của từng nông hộ canh tác vì nếu nâng tỷ lệ mương quá cao sẽ tăng chi phí và người nông dân không đủ sức đầu tư và giảm đi diện tích trồng lúa. Nghiên cứu này khuyến cáo: Đối với mô hình T-L ở Kiên Giang tỷ lệ diện tích mương chiếm khoảng 20-30% diện tích vuông là hợp lý; và khoảng 25-30% được xem là hợp lý cho vùng nghiên cứu T-L Cà Mau và Bạc Liêu. Độ sâu mức nước ở mương và trên trảng có ý nghĩa lớn liên quan đến năng suất và lợi nhuận tôm nuôi. Theo kết quả phân tích hồi quy đa biến của Nguyễn Công Thành (2013b) cho thấy: Tăng thêm mực nước bình quân trên trảng (hiện nay 27,8±11,9 cm) khi nuôi giúp ổn định môi trường và giúp tôm phát triển tốt hơn, tăng 1,0 cm so với mực nước bình quân hiện nay có thể giúp tăng 2,47% về năng suất). Tuy nhiên, do điều kiện thiết kế công trình như hiện nay, mực nước phù hợp nhất cho nuôi tôm trong mô hình T-L tại địa bàn nghiên cứu là 40-60 cm. Kết quả điều tra của Thiều Lư và ctv., (2010) mực nước mương khi triều ròng dao động từ 0,75±0,27 cm trong mô hình QCCT là chưa phù hợp, để tăng năng suất và lợi nhuận tôm cần giữ độ sâu mức nước trong mương cao hơn, khi độ sâu tăng thì năng suất tăng lên và lợi nhuận cũng tăng theo. Hệ thống cống cấp thoát nước cũng nên thiết kế thêm. Đặc biệt đối với vùng nghiên cứu Bạc Liêu và Kiên Giang, nơi có biên độ triều dao động cao, nên thiết kế thêm hệ thống cống và và thoát nước ngang mặt trảng. Hệ thống cống có thể cấu trúc bằng vật liệu xi măng hoặc ống nhựa PVC (f 30-50 cm) để thuận lợi trong việc điều tiết nước. Kết quả nghiên cứu về nguồn thu nhập của nông hộ canh tác tôm lúa cho thấy, bên cạnh nguồn thu nhập thường niên hàng ngày đủ trang trải cuộc sống thường nhật, để có nguồn tích lũy cho gia đình và định hướng phát triển khác trong tương lai, ngoài ứng dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất cũng cần phải quan tâm đến cải tiến thiết kế hệ thống công trình nuôi. Thiết kế thêm ao nuôi BTC được xem là giải pháp hiệu quả bởi góp phần tăng nâng suất tôm nuôi. Ao BTC có thể dùng làm ao ương giống hoặc nuôi BTC vào mùa nắng; vào mùa mưa dùng ao nuôi cá và chứa nước ngọt phục vụ cho tưới tiêu cây lúa một khi có nắng hạn cục bộ xảy ra. Qua kết quả thực tế sản xuất vụ mùa năm 2012 cho thấy, ao BTC có ý nghĩa rất lớn trong góp phần nâng cao năng suất, sản lượng tôm nuôi trên một đơn vị diện tích. Từ năng suất vượt trội này (dao động từ 15-50%) nông hộ có thêm nguồn thu nhập tích lũy cho gia đình. Hiện nay, một số hộ vùng nghiên cứu Kiên Giang và Bạc Liêu còn tận dụng ao BTC để ương tôm giống trước vào tháng cuối mùa mưa, tháng 12 của năm (đây là tháng chuẩn bị gặt lúa và độ mặn bắt đầu xâm 66 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nhập vào vùng nghiên cứu), đến sau khi gặt lúa xong lấy nước mặn vào vuông và bắt tôm giống đã ương sẵn thả ra vuông nuôi tiếp. Với cách làm này, sẽ góp phần rút ngắn thời gian nuôi và tăng thu nhập cho người dân canh tác T-L trong mùa vụ tới. Tuy nhiên, cũng qua kết quả nghiên cứu cho thấy với tỷ lệ diện tích ao chiếm từ 10-20% diện tích vuông chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng suất và hiệu quả của nuôi tôm trong mô hình T-L. Đối với ý nghĩa trong việc trồng lúa của mô hình T-L chưa thể hiện rõ nét. Vì qua kết quả nghiên cứu cho thấy: Với tỷ lệ 10-20% diện tích vuông chỉ có thể giải quyết “đối phó” nguồn nước ngọt cho tưới tiêu cây lúa khi nắng hạn cục bộ kéo dài trong khoảng 15-20 ngày. Việc nắng hạn cục bộ kéo dài hơn 20 ngày sẽ là nan giải cho trồng lúa trên đất nuôi tôm. Nếu để giải quyết vấn đề này thiết nghĩ nên thiết kế ao chiếm tỷ lệ lớn hơn. Nhưng điều này sẽ gây tốn kém và mất nhiều diện tích trồng lúa, và ý nghĩa của mô hình T-L có thể “bị phá vỡ”. Do đó, tùy theo điều kiện kinh tế, điều kiện vùng và quy hoạch của từng vùng, ao BTC có diện tích lớn nhỏ khác nhau được đề xuất như sau: + Vùng Kiên Giang: Với những thuận lợi như về nguồn nước ngọt, truyền thống về nuôi tôm QCCT, và có kinh nghiệm trong trồng lúa cao sản, và mô hình ương tôm giống giai đoạn đầu được khuyến cáo ứng dụng trong báo cáo này. Ao thiết kế mới nên có diện tích chiếm từ 5-10% là hợp lý nhất cho cả nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế trong nuôi tôm vào mùa khô và trồng lúa vào mùa mưa. + Vùng Cà Mau và Bạc Liêu: Với những ưu điểm như tiếp cận nhiều về kỹ thuật nuôi tôm BTC, kết cấu đất phù hợp cho nuôi tôm BTC, truyền thống trồng lúa mùa địa phường (một bụi đỏ, nàng hương,) và khó khăn về nguồn nước ngọt do ảnh hưởng nhiều ở triều biển đông. Ao BTC nên có diện tích từ 15-30% diện tích vuông là hợp lý cả canh tác tôm nào mùa khô và trồng lúa vào mùa mưa, nhưng nông hộ cần phải đầu tư lớn cho hạ tầng ao BTC và nuôi BTC. Công trình cho các mô hình ao ương/nuôi BTC theo thiết kế đảm bảo không cấp nước trực tiếp từ kênh/sông cấp như truyền thống của người dân địa phương. Thay vào đó, nước được cấp hoặc thay thông qua vuông QCCT trước khi cấp vào ao ương/nuôi BTC (Hình 6). Thiết kế này đảm bảo tính an toàn sinh học về quản lý mầm bệnh xâm nhập vào ao ương/nuôi BTC một khi tình hình bệnh dịch bùng phát, và ngược lại. Cách thiết kế vuông như trên sẽ giúp cho người nuôi BTC ở ĐBSCL nói chung, ở các vùng nghiên cứu nói riêng gia tăng năng suất tôm nuôi nhưng không mất diện tích làm ao lắng. Giải pháp này đặc biệt phù hợp với những nông hộ có diện tích đất canh tác hẹp. Việc bố trí thả giống nuôi QCCT 3 lần/vụ và mật độ thả giống thưa (thả giống lần đầu 1,5 con/m2; hai lần sau 0,5-1 con/m2. Tổng cộng là 3-3,5 con/m2) là điểm khác biệt nữa trong giải giáp về con giống trong mô hình T-L. Từ kết quả điều tra cho thấy trung bình trong một vụ số lần tôm giống thả bổ sung là 4,1 lần (cao nhất Bạc Liêu 4,9 lần) với mật độ thả giống lần đầu trung bình 4,2 con/m2 (Kiên Giang 4,9 con/m2; Bạc Liêu 4,0 con/m2 và Cà Mau 3,6 con/m2), tổng cho các lần thả giống trung bình là 16,3 con/m2. Với cách thả giống này làm tăng chi phí sản xuất và là cơ hội mầm bệnh dễ dàng tìm vật chủ (tôm) ký sinh gây bệnh, hơn nữa thức ăn tự nhiên trong vuông sẽ thiếu vì đa phần người nuôi không bổ sung thêm thức ăn và bón phân tạo thức ăn tự nhiên. Theo báo cáo của Thiều Lư và ctv., (2010) cho thấy mối tương quan giữa mật độ và năng suất là tương quan thuận, khi mật độ thả tăng thì năng suất có tăng lên; phân tích giữa lợi nhuận và mật độ thì không có sự liên quan. Điều này có thể giải thích là do khi thả mật độ cao trong mô hình QCCT có thể tăng năng suất nhưng chất lượng tôm không tăng (do kích cỡ nhỏ). Từ đó tác giả khuyến cáo 67TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nên thả 2 lần/vụ với lần đầu thả 2 con/m2, lần sau thả 1,5 con/m2. Từ kết quả phân tích trên kết hợp với kết quả sản lượng tôm thu hoạch được nhận định mật độ nuôi QCCT thích hợp với điều kiện hiện nay của người dân canh tác mô hình T-L 3-3,5 con/m2 và mật độ nuôi BTC phù hợp với điều kiện quản lý của người dân hiện nay là từ 10-15 con/m2. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Tỷ lệ diện tích mương/diện tích vuông phù phợp cho vùng canh tác T-L hiện nay của Kiên Giang từ 20-30 % và của Cà Mau và Bạc Liêu từ 25-30 %. Độ sâu mực nước trên trảng vuông QCCT phù hợp nhất cho nuôi tôm trong mô hình T-L hiện nay từ 40-60 cm. Việc thiết kế thêm ao nuôi BTC dùng để ương hoặc nuôi BTC là cần thiết, góp phần nâng cao nâng suất, hiệu quả kinh tế và tính bền vững mô hình tôm lúa hiện nay. Trong đó, tỷ lệ diện tích ao BTC chiếm từ 5-10% là phù hợp cho vùng Kiên Giang và chiếm từ 15-30 % là phù hợp cho vùng Cà Mau và Bạc Liêu. Số lần thả giống nuôi QCCT từ 2-3 lần/vụ với tổng mật độ 3-3,5 con/m2 (lần đầu 1,5 con/ m2; hai lần sau 0,5-1 con/m2) là phù phợp điều kiện hiện nay của người dân canh tác mô hình T-L; và mật độ thích hợp để người nhân quản lý trong mô hình nuôi ao trong điều kiện hiện nay là từ 10-15 con/m2. Việc ứng dụng những giải pháp kỹ thuật như chọn tôm giống, thuần hóa tôm giống, thay nước có kiểm soát, sử dụng vôi, phân, dolomite, zeolite, sử dụng chế phẩm vi sinh định kỳ và quản lý thức ăn, quản lý môi trường, quản lý sức khỏe tôm phù hợp cho phát triển mô hình T-L hiện nay ở vùng bán đảo Cà Mau. 5.2. Đề xuất Cần nhân rộng mô hình nuôi QCCT và mô hình nuôi BTC đến các nông hộ trong vùng nghiên cứu và các vùng có điều kiện tương tự khác trong vùng bán đảo Cà Mau. TÀI LIỆU THAM KHẢO Thiều Lư, Trình Trung Phi, Nguyễn Công Thành, Đỗ Văn Hoàng, Ngô Minh Lý, Trần Quốc Bình và Nguyễn Trọng Nghĩa, 2010. Nghiên cứu một số giải pháp phát triển bền vững các mô hình nuôi tôm trên vùng chuyển đổi tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hợp phần phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững (SUDA) tài trợ. Báo cáo Khoa học. Phân Viện NCTS Minh Hải. Nguyễn Công Thành Ngô Minh Lý và Nguyễn Văn Hảo, 2013a. Hiện trạng kỹ thuật và kinh tế-xã hội của mô hình luân canh T-L ở các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau. Tạp chí Nghề cá Sông Cửu Long số 01/2013. Nguyễn Công Thành, Nguyễn Văn Hảo, Lê Xuân Sinh và Đặng Thị Phương, 2013b. Những rủi ro và hạn chế của mô hình tôm lúa ở vùng bán đảo Cà Mau và một số giải pháp khắc phục. Tạp chí Nghề cá sông Cửu Long số 02/2013. Lê Quang Trí, Cao Phương Nam, 2004. Bước đầu đánh giá hệ thống canh tác vùng chuyển đổi sản xuất tỉnh Cà Mau, đề xuất các giải pháp phát triển bền vững giai đoạn 2002 - 2005 và định hướng đến 2010. Báo cáo Khoa học. Sở Khoa học & Công nghệ Cà Mau. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bạc Liêu, 2012. Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng năm 2012. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bạc Liêu, 2013. Báo cáo tổng kết năm 2012 và phương hướng năm 2013. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cà Mau, 2012. Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng năm 2012. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cà Mau, 2013. Báo cáo tổng kết năm 2012 và phương hướng năm 2013. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Kiên Giang, 2012. Báo cáo tổng kết năm 2011 và phương hướng năm 2012. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Kiên Giang, 2013. Báo cáo tổng kết năm 2012 và phương hướng năm 2013. 68 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 3 - THAÙNG 6/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 SOLUTIONS FOR SHRIMP CULTURE IN RICE-SHRIMP ROTATION SYSTEM IN THE CAMAU PENINSULA Nguyen Cong Thanh1, Ngo Minh Ly1, Pham Cu Thien2, Hoang Thi Thuy Tien2 ABSTRACT The paper consists of the researches’s findings of the rice shrimp culture system in different ecosys- tems in the Camau peninsula in 2011-2013, the analysis output from the survey of 170 households and the the reviews of the related reports of rice shrimp culture. Its results gave some technical so- lutions for the rice shrimp culture system. In order to minimize the risks in rice shrimp cultivation, it is necessary to design the suitable system for shrimp culture in the dry season and rice cultivation in the wet season in the Camau peninsula : the area for shrimp and rice should be balanced between the dry and rainy seasons, the increase of their productivities needs to follow the trends of the sus- tainability, the water level in the flatform should be from 0.5-0.6m and in the ditch from 1.2-1.4m, the around and inside ditches in the fields should be enlarged to reach the rate of ditch and platform area from 20-30%. It is important to make the new design for the semi-intensive ponds to use in nursing or grow-out, it will contribute to the improvement of the yield, the economic feasibility and the sustainability of the current rice shrimp culture system. In which, the rate of the semi-intensive ponds shpuld be 5-10% for Kien Giang, 15-30 % for Ca Mau and Bac Lieu areas. The suitable stocking quantity for the improved extension culture system should be from 2-3 times/ crop with the total density of 3.0-3.5 shrimp/m2 (the first stocking is 1.5 shrimp/m2; the next two times from 0.5-1.0 shrimp /m2); for the pond culture, the density should be 10-15 shrimp/m2. To have good adjustment and management, the following activities should be strictly applied: selecting the seed, domesticating the postlarvae, changing water, liming, fertilizing, using dolomite and zeolite and microbioproduct periodicaly, managing the environment and shrimp health. Keywords: solution for shrimp culture, density, new design, rice-shrimp, rate of area. Người phản biện: ThS. Đỗ Quang Tiền Vương Ngày nhận bài: 01/03/2014 Ngày thông qua phản biện: 15/03/2014 Ngày duyệt đăng: 30/3/2014 1 Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research, Research Institute for Aquaculture No 2. Email: ncthanh444789@yahoo.com 2 Research Institute for Aquaculture No 2.
File đính kèm:
- giai_phap_nuoi_tom_trong_mo_hinh_luan_canh_tom_lua_o_vung_ba.pdf