Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor (trước)/ hinter (sau) với tiếng Việt
Bài báo tập trung tìm hiểu về những giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại trong tiếng
Đức gồm những giới từ: “vor (trước)/ hinter (sau)”, đối chiếu với tiếng Việt. Qua đó, bài viết
cho thấy sự giống nhau và khác nhau trong cách sử dụng những giới từ chỉ địa điểm mang
nghĩa không gian (tri nhận) trong tiếng Đức và tiếng Việt. Những giới từ này không dễ sử
dụng và thường gây nhầm lẫn và lúng túng cho người học. Vì vậy, chúng tôi hy vọng rằng
những kết quả nghiên cứu của bài viết sẽ giúp người học hiểu biết rõ ràng hơn về cách sử
dụng cũng như phân loại giới từ theo các đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của nó.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor (trước)/ hinter (sau) với tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đối chiếu giới từ địa điểm trong tiếng Đức vor (trước)/ hinter (sau) với tiếng Việt
ở mặt kia của tầm nhìn của đối tượng khác. Khoảng cách giữa mối quan hệ dẫn đến các mối quan hệ khác, cụ thể là: direkt vor (phía trước trực tiếp) và direkt hinter (phía sau trực tiếp). Đối với direkt vor (phía trước trực tiếp) một đối tượng đứng trực tiếp trước một đối tượng khác. Đối với direkt hinter (phía sau trực tiếp) không có khoảng cách thứ ba giữa hai đối tượng. [Vgl. Edb. (1988): 29] Trong diễn đạt này Garage (nhà để xe) được mô tả thông qua giới từ hinter (sau) như là vị trí của mặt sau ngôi nhà. Ở đây với điều kiện rằng mặt trước của ngôi nhà cần được nhận biết, mặt trước nhà là mặt mà hướng ra đường. [Vgl. Weinrich, H. (2005): 630] Vor (trước) được phân tích ngược lại. Eisenberg lại tìm thấy một cách giải thích khác. Đối với những vật mà không xác định được trước và sau thì cách thức định hướng là “chỉ xuất tương tự” [Eisenberg, P. (2006): 1994] Ví dụ: Der Baum steht vor dem Haus (Cái cây đứng trước ngôi nhà), “cái cây” có thể đảm nhiệm hai vị trí hoặc là ở mặt trước ngôi nhà hoặc giữa ngôi nhà và người nhìn. Đối với những đối tượng mặt trước và mặt sau không rõ ràng thì vor (trước) và hinter (sau) được hiểu theo từng hướng đối với đối tượng tham chiếu. [Vgl. Mansour, M. A. (1988): 32] Ví dụ: Sie sitzt hinter den Baum (Cô ta ngồi dưới cái cây) Vị trí của người nhìn đóng vai trò quan trọng trong việc định vị đối tượng. [Vgl. Weinrich, H. (2005): 630]. Trong ví dụ sau đây, hai giới từ có thể thay đổi 43Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cho nhau tùy theo người nhìn đứng đâu: “Wir Bankangestellte können uns hinter unseren Schaltern nicht unterhalten, wenn vor den Schaltern Kunden warten” (Chúng tôi, nhân viên ngân hàng, không thể nói chuyện sau quầy giao dịch khi trước quầy giao dịch khách hàng đang đợi.) [Mansour, M. A. (1988): 22] Đối với hinter (sau) không phải luôn luôn định vị chính xác đối tượng liên quan đến một đối tượng khác, mà diễn đạt rằng đối tượng được định vị bị giấu trước tầm nhìn của người nhìn. [Vgl. Edb. (1988): 31] Ví dụ: Ich verriegelte die Tür des Badezimmers hinter mir. (Tôi khóa cái cửa phòng tắm sau tôi) Vor (trước) cũng xảy ra với đối tượng tham chiếu mà bao gồm nhiều người. [Vgl. Weinrich, H (2005): 643] Ví dụ: Nun muss sie vor dem Gericht stehen (Cô ta hiện đang đứng trước tòa) Tuy nhiên cả hai giới từ vor (trước) và hinter (sau) không được sử dụng bởi tất cả đối tượng. Đối với những đối tượng không có chiều dọc làm đối tượng tham chiếu, vor (trước) và hinter (sau) không được sử dụng. Trong trường hợp này các diễn đạt diesseits và jenseits là phù hợp. [Vgl. Mansour, M. A. (1988): 32f] Ví dụ: Die Frau sitzt hinter dem Fluss (Người phụ nữ ngồi sau dòng sông) Giải thích tiếp theo của hinter (sau) là, mặt sau mà hinter (sau) diễn đạt trong nhiều tình huống được coi như là cản trở sự nhìn. Do đó có nhiều cách diễn đạt ẩn dụ. [Vgl. Weinrich, H (2005): 631] Ví dụ: Das Gesicht hinter der Maske (Khuôn mặt đằng sau chiếc mặt nạ) Der Neid hinter seinen freundlichen Worten (Sự đố kỵ đằng sau lời nói thân mật của anh ta) Trái ngược với vor (trước) và hinter (sau) truyền tải cảm giác đe dọa thông qua sự nhận thức của cơ thể, theo đó vor hợp với một động từ phản thân như là cơ sở. [Vgl. Weinrich, H. (2005): 643] Ví dụ: Die Mutter schützt das Kind vor dem Hund (Người mẹ bảo vệ đứa trẻ trước con chó) Ngoài ra vor (trước) và hinter (sau) có thể kết hợp với her để diễn đạt rằng cả hai đối tượng chuyển động cùng một hướng. [Vgl Mansour, M. A. (1988): 34] Ví dụ: Die Kinder laufen der Mutter hinterher. (Những đứa trẻ chạy đằng sau mẹ) 2.2. Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt Phù hợp với giới từ được phân tích trong tiếng Đức, các giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt sau đây được chúng tôi nghiên cứu như: trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa, bên, lên, xuống, ra, vào. 2.2.1 Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại trong tiếng Việt xuất hiện trước danh từ, đại từ nhân xưng, từ phiếm và nêu ra hành động/ sự kiện diễn ra ở đâu. Các giới từ sau thuộc loại này là: trên, dưới, trước, sau. 2.2.2. Giới từ "trước, sau" (vor, hinter) 44 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Giới từ trước đứng trước danh từ và đại từ nhân xưng và diễn rả một đối tượng thấy ở mặt trước của đối tượng khác. Đối tượng tham chiếu có điều kiện là phải xác định được đâu là mặt trước và mặt sau. Hướng chuyển động của con người thông thường đi lên trước. Do đó mặt trước và mặt sau của một người được xác định. Trước mắt chúng tôi là biển cả. (Vor uns liegt das Meer.) Nhà được xác định mặt trước là mặt có cửa và hướng ra đường. Mặt khác mà được xây song song với mặt trước được gọi là mặt sau. Chiếc ô tô đỗ trước nhà (Das Auto wird vor dem Haus geparkt) Dĩ nhiên không thể xác định mặt trước và mặt sau của tất cả các đồ vật. Trong trường hợp này một đối tượng đứng trước hoặc sau một đối tượng khác phụ thuộc vào mối quan hệ không gian giữa người nhìn, đối tượng tham chiếu và đối tượng được định vị. Lý Toàn Thắng cho rằng người Việt Nam thường sử dụng chiến lược “ego-facing” để mô tả mối quan hệ không gian trước và sau của đối tượng, có nghĩa là đối tượng mà ở gần người nhìn/người nói hơn, thì đứng trước đối tượng khác. Cậu bé đứng sau gốc cây Cậu bé đứng trước gốc cây (Der Junge steht hinter dem Baum) (Der Junge stehr vor dem Baum) Trong ví dụ này, đối tượng cụ thể là cậu bé trong tiếng Việt được định vị khá chi tiết thông qua gốc cây. Trong tiếng Đức ta thường nói cậu bé đứng sau/trước cái cây, mặc dù ta hiểu rằng trong trường hợp này cái cây biểu tượng cho gốc cây, vì cậu bé dĩ nhiên không thể lơ lửng trên trong không khí và ta thấy không thể ở đâu khác ngoài ở cạnh gốc cây. Ý nghĩa này không được hiểu trong tiếng Việt mà phải được diễn đạt thông qua từ gốc. Đặc điểm này thường xuất hiện khi sử dụng giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Việt, đặc biệt là giới từ trước và sau. Trong một số trường hợp thậm chí có sự thay đổi ý nghĩa nếu đặc điểm chi tiết này được loại bỏ. 45Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Thông qua từ mặt trong ví dụ (1) ta có thể hiểu rằng chị ấy và tôi đứng đối diện nhau và có lẽ nói chuyện với nhau, trong khi đó ở ví dụ (2) người nghe tự giới thiệu rằng chị ấy và tôi đứng ở một hàng và “chị ấy” chỉ cho “tôi” cái lưng. Giới từ trước /sau được sử dụng theo cách nhìn thông qua trên/dưới. Ví dụ 3a: Ba lô trên lưng (Rucksack auf dem Rücken) Ví dụ 3b Ba lô sau lưng (Rucksack auf dem Rücken) Ví dụ (4a): Huân chương trên ngực (Medaille vor der Brust) Ví dụ (4b): Huân chương trước ngực (Medaille vor der Brust) Trong các ví dụ (3a) và (4a) lưng và ngực được coi là một mặt phẳng mà ta có thể dựa những đồ vật vào. Cả hai bộ phận cơ thể đều thuộc phần trên của con người do vậy theo nguyên tắc “hình thái tiêu chuẩn”, chúng ta sử dụng giới từ trên. Ngược lại lưng và ngực trong ví dụ (3b) và (4b) như là các bộ phận của đối tượng có mặt trước và mặt sau. Lưng là ở mặt sau và cần giới từ sau. Ngực thuộc mặt trước và cần giới từ trước. 3. Kết luận Khi nghiên cứu về các giới từ trong tiếng Đức thì động lực nghiên cứu các giới từ chỉ địa điểm “vor (trước)/ hinter (sau)” trong hệ thống giới từ chỉ không gian trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt của tôi dựa trên các thiếu sót về so sánh đối chiếu giữa tiếng Đức và tiếng Việt nói chung và giới từ chỉ địa điểm trong hai ngôn ngữ nói riêng. Phù hợp với mục đích nghiên cứu, các kết quả của nghiên cứu viết bài báo được tóm tắt sau đây: Những đặc điểm về sự giống nhau và khác nhau của giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức đối chiếu với tiếng Việt. Giới từ trong tiếng Đức là một phạm trù từ loại căn bản, đứng trước danh từ, cụm danh từ hoặc đại từ, để biểu thị mối quan hệ giữa những từ này với những từ khác trong câu. Do đặc điểm về vị trí, giới từ tiếng Đức dùng thuật ngữ Präpositionalgruppe tức là “nhóm từ đứng trước”. Việc phân loại các giới từ trong tiếng Đức căn bản dựa vào hai tiêu chí là ngữ nghĩa và ngữ pháp. Phân loại theo ngữ nghĩa chỉ thuần túy phân thành các nhóm nhỏ theo nội dung ý nghĩa, ít có tác dụng sử dụng. Tuy nhiên cách phân loại 361 giới từ tiếng Đức của Helbig, G./ Buscha, J (2001) thành các nhóm nhỏ hơn dựa vào ý nghĩa mang nhiều giá trị khoa học. Cách phân loại theo ngữ pháp gắn liền với phạm trù cách tức là giới từ đòi hỏi các từ đi sau nó theo các cách: cách 4 (Akkusativ) là đối cách ; cách 3 (Dativ) là tặng cách và cách 2 (Genitiv) là sở hữu cách có ý nghĩa thiết thực, đặc biệt cho việc dạy và học tiếng Đức với tư cách là một ngoại ngữ. Giới từ chỉ địa điểm trong tiếng Đức và tiếng Việt giống nhau ở cách phân loại 46 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và mặt ngữ nghĩa. Giới từ chỉ địa điểm ở hai ngôn ngữ được chia thành hai nhóm là giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại và giới từ chỉ phương hướng chuyển động. Giới từ chỉ địa điểm tĩnh tại diễn tả mối quan hệ không gian không có sự thay đổi địa điểm hoặc không hướng đến điểm đích. Ngược lại giới từ chỉ phương hướng chuyển động nêu ra rằng một đối tượng chuyển động hoặc được chuyển động từ một nơi đến một nơi khác. Trong hai ngôn ngữ, đối với từng tình huống nói, một hoặc nhiều giới từ chỉ địa điểm nhất định được sử dụng để diễn tả mối quan hệ không gian giữa các đối tượng. Trong hầu hết trường hợp việc chuyển nghĩa mang lại những câu nói phù hợp, tuy nhiên vì nhận thức không gian và việc sử dụng giới từ chỉ địa điểm khác nhau nên dẫn đến văn bản bị sai hoặc hiểu sai, không hiểu. Nhận thức về không gian mà được miêu tả thông qua chính giới từ chuyển đổi tiếng Đức và bản dịch của chúng sang tiếng Việt cũng mang những điểm giống nhau và sự khác nhau. Trong bài báo này tôi đã nghiên cứu và đã làm rõ nghĩa hơn những giới từ chỉ địa điểm vor (trước) và hinter (sau) mang nghĩa không gian trong tiếng Đức và đối chiếu với tiếng Việt. Tài liệu tham khảo: A. Tài liệu tiếng Việt [1]. Nguyễn Đức Dân: Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ.2005 [2]. Nguyễn Đức Dân. Tri nhận và ẩn dụ về các từ định hướng không gian tiếng Việt. Bài báo. 2005. [3]. Trần Quang Hải. Thử tìm một mô hình để dịch các giới ngữ chỉ quan hệ định vị không gian từ tiếng Việt sang tiếng Anh và ngược lại. [4]. Nguyễn Văn Hiệp (2013) công bố bài viết dưới tiêu đề Ngữ nghĩa của “RA” “VÀO” trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nghiệm thân. [5]. Nguyễn Cảnh Hoa. Nhận xét về sự khác nhau của một vài giới từ tiếng Việt và tiếng Anh. Hội thảo khoa học. Hội NNH Việt Nam, Hà Nội. 1998. [6]. Đỗ Việt Hùng (2001): Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Tái bản lần 3. Nxb GD, Hà Nội. [7]. Nguyễn Lai (2001): Ngữ nghĩa nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại: quá trình hình thành và phát triển, NXB Khoa học xã hội. [8]. Nguyễn Lai (2012) bài báo Sự hình thành cấu trúc vận động không gian vào Nam (từ góc nhìn tạo nghĩa của hoạt động nhận thức) [9]. Hà Quang Năng (2001): Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học. Tái bản lần 3. Nxb GD, Hà Nội. [10]. Lê Văn Thanh (2003) Luận án Tiến sĩ Ngữ văn với đề tài Ngữ nghĩa của các giới từ chỉ không gian trong tiếng Anh (trong sự đối chiếu với tiếng Việt) [11]. Lê Văn Thanh. Giới từ “in” – một cách tri nhận không gian lí thú của người Anh. NN&ĐS. 5/2002. [12]. Lê Văn Thanh & Lý Toàn Thắng. Ba giới từ at, on, in (thử nhìn từ góc độ cơ chế tri nhận không gian trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Việt). NN.9/2002 [13]. Lý Toàn Thắng (1994): Ngôn ngữ và sự tri nhận không gian. NN.4/1994. [14]. Lý Toàn Thắng (2005): Ngôn ngữ học tri nhận. Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt. Nxb KHXH, Hà Nội. [15]. Lý Toàn Thắng (2015): Ngôn ngữ học tri nhận những nội dung quan yếu. 47Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion B. Tài liệu tiếng Đức [16]. Angelika Wöllstein-Leisten; Axel Heilmann; Peter Stepan; Sten Vikner (2006): Deutsche Satzstruktur. Grundlagen der syntaktischen Analyse. Stauff enburg, Tübingen. [17]. Beerbom, C. (1992): Modalpartikeln als Übersetzungsproblem: eine kontrastive Studie zum Sprachenpaar Deutsch –Spanisch. Frankfurt am Main; Bern; New York; Paris: Lang. [18]. Boetther, W (2009): Hiểu ngữ pháp. 1 – Wort. Nhà xuất bản Max Niemeyer, Tübingen Eisenberg, P. (2006): Tổng quan ngữ pháp tiếng Đức – Câu – tái bản lần thứ 3, Nhà xuất bản J. B. Metzler, Stuttgart. [19]. Daniel Kehlmann, Die Vermessung der Welt (2006): Đo thế giới. Nhà xuất bản Rowohlt, Hamburg. [20]. Eisenberg Peter (2006): Grundriss der deutschen Grammatik – Der Satz – 3. Aufl age, J. B. Metzler Verlag, Stuttgart [21]. Helbig, G./ Buscha, J. (2001): Ngữ pháp tiếng Đức. Sổ tay cho người nước ngoài. Langenscheidt, Berlin/München/Wien/ Zürick/ New York. [22]. Hentschel, E./ Weydt, H. (2003): Sổ tay ngữ pháp tiếng Đức – Phiên bản được biên tập hoàn toàn mới lần thứ 3. Walter de Gruyter, Berlin/New York. [23]. Jochen Schröder (1986): Lexikon deutscher Präpositionen. Enzyklopädie Verlag. Leipzig. [24]. Ludger Hoff mann (2009): Handbuch der deutschen Wortarten. Walter de Gruyter, Berlin/ New York. [25]. Ludger Hoff mann (2009): Sổ tay từ loại tiếng Đức. Walter der Gruyter, Berlin/ New York. [26]. Masour, M. A. (1988): Phân tích đối chiếu của giới từ chỉ địa điểm và thời gian trong tiếng Đức và tiếng Ả rập. Luận án nhậm chức để đạt được học vị tiến sỹ của Khoa Triết học của Trường Đại học Albert-Ludwigs zu Freiburg i. Br., Freiburg. [27]. Musan, R. (2009): Phân tích thành phần câu. Tái bản lần thứ 2. Nhà xuất bản đại học Winter, Heidelberg. [28]. Pafel, J. (2011): Nhập môn cú pháp. Cơ sở - Cấu trúc – Lý thuyết. Nhà xuất bản J.B. Metzler, Weinar. [29]. Schröder, J. (1986): Từ điển giới từ tiếng Đức. Nhà xuất bản Enzyklopädie, Leipzig. [30]. Sommerfeldt, K./Starke G. (1998): Nhập môn ngữ pháp trong tiếng Đức hiện đại - Ấn bản được biên tập mới lần thứ 3 với sự hỗ trợ của Werner Hackel. Nhà xuất bản Max Niemeyer, Tübingen. [31]. Weinrich Harald (2005): Textgrammatik der deutschen Sprache. 3. Revidierte Aufl age. Hildesheim/ Zürich/ New York: Georg Olms Verlag. [32]. Weinrich. H. (2005): Ngữ pháp văn bản của ngôn ngữ Đức. Ấn bản được chỉnh sửa lần thứ 3. Nhà xuất bản Georg Olms, Hildesheim/ Zürich/ New York. [33]. Wolfgang Boettcher (2009): Grammatik verstehen. I – Wort. Tübingen: Max Niemeyer Verlag. [34]. Wolfgang Boettcher (2009): Grammatik verstehen. II – Einfacher Satz. Tübingen: Max Niemeyer Verlag. [35]. Wöllstein-Leisten, A./Heilmann, A./ Stepan, P. Sten Vikner (2006): Cấu trúc câu tiếng Đức. Cơ sở phân tích cú pháp. Stauff enburg, Tübingen. Địa chỉ tác giả: Trường Cao đẳng Y tế Hà Đông Email: nuongnguyen.vpbox@gmail.com
File đính kèm:
- doi_chieu_gioi_tu_dia_diem_trong_tieng_duc_vor_truoc_hinter.pdf