Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp
Trong quá trình giảng dạy phiên dịch, nhất là đánh giá kết quả học tập phần phiên dịch từ
tiếng Hán sang tiếng Việt. Vì vậy cụ thể hóa thang độ lỗi và thang điểm là một vấn đề cấp
thiết.Nhằm xây dựng thang độ lỗi để xác định kiểu lỗi trong bài tập cũng nhƣ bài thi của
sinh viên, bài nghiên cứu từ dữ liệu thực tế về lỗi sai của bản dịch kết hợp với lý thuyết
dịch Hán Việt, lý thuyết phân tích bản dịch đề xuất một số chuẩn mực để hình thành
thang độ lỗi cho việc đánh giá bản dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt ở trình độ sơ cấp
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp
lý thuyết là nguyên nhân lỗi của từ vựng, những lỗi sai chúng tôi thu thập đƣợc chủ yếu lỗi từ vựng do quá trung thành với ngôn ngữ nguồn, ƣu tiên lựa chọn cách đọc Hán-Việt trong bản dịch. Theo Lê Đình Khẩn (2007, tr.87) ―Nhiều ngƣời đã không phân biệt đƣợc, hoặc cố tình không cần phân biệt sự khác nhau giữa quá trình phiên dịch Hán-Việt và phiên âm Hán-Việt, nên trong rất nhiều trƣờng hợp ngƣời ta đã dùng lối phiên âm Hán-Việt để thay cho phiên dịch Hán-Việt. Chẳng hạn, khi phiên dịch một văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, hễ gặp phải những từ ngữ khó hiểu, khó xử lý, ngƣời dịch lập tức nghĩ ngay đến ―âm đọc Hán-Việt‖. Nó có thể giúp ngƣời dịch gỡ thế bí bằng thao tác cực kỳ đơn giản, ai cũng có thể làm đƣợc, đó là phiên âm...Tùy theo trình độ và lƣơng tâm ngƣời dịch mà số lƣợng các đơn vị Hán giả Việt có nhiều hay ít trong bản dịch tiếng Việt. Không phải bây giờ, mà từ lâu, việc lạm dụng âm đọc Hán-Việt đã trở thành một căn bệnh nan y trong ngành phiên dịch Hán-Việt‖. Thông qua khảo sát của chúng tôi nhận định trên là hoàn toàn có căn cứ. Ví dụ: (11)昨天我没量体温,但感觉有点发烧 Bản dịch của sinh viên: Hôm qua, tôi chƣa đo nhiệt độ cơ thể nhƣng cảm thấy phát sốt một chút. (12)他用那双颤抖的小手拿旧报纸将月饼包了一层又一层,小心地放在篮子里。 Bản dịch của sinh viên: Anh ấy dùng đôi tay khéo léo đó cầm gói bánh trung thu đƣợc bọc trong giấy báo cũ từng tầng từng tầng một, cẩn thận bỏ vào rổ. (13)我心中由唱起了这支歌:丌经历风雨怎么见彩虹,没有人能随随便便成功。 Bản dịch của sinh viên: Trong lòng của tôi lại hát lên bài hát này, không trải qua mƣa gió làm sao thấy đƣợc cầu vồng, không có ai có thể tùy tiện thành công. (14)首先,要请重要的客人、老师、领导和长辈上座。 Bản dịch của sinh viên: Đầu tiên, cần phải mời những vị khách quan trọng, thầy cô giáo, lãnh đạo hay các trƣởng bối ngồi ở thƣợng tọa/chỗ thƣợng. (15)她是日本人,她叫山本,家在东京。 Bản dịch của sinh viên: Cô ấy là ngƣời Nhật, tên là Sơn Bổn, nhà ở Đông Kinh. Câu (11) từ 发烧 đƣợc dịch thành ―phát sốt‖, có thể thấy cách sử dụng chịu sự ảnh hƣởng bởi âm Hán-Việt. Theo Từ điển Trung Việt发烧 đƣợc giải thích là ―sốt‖ (Phan Văn Các, 2006, tr. 327). Định nghĩa của từ điển tiếng Việt về sốt ―1 Tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng, do bị bệnh; 2 (thƣờng dùng cơn sốt) Tăng nhu cầu đột, làm cho hàng trở nên khan hiếm‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr. 868). Riêng về ―phát sốt‖ hiện chƣa chƣa xuất hiện trong mục từ của từ điển, nhƣng giữa lý thuyết và thực hành lúc nào cũng có một khoảng cách, trong ngôn ngữ giữa từ điển và thực tế cũng có khoảng cách nhất định. Do hiện tại chúng tôi chƣa thể tiếp cận đƣợc kho ngữ liệu tiếng Việt, nên đành sử dụng công cụ tìm Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 622 kiếm Google để kiểm chứng xu hƣớng tần suất sử dụng của ―phát sốt‖. Chúng tôi nhập ―phát sốt‖ vào phần tìm kiếm của Google vào ngày 30 tháng 09 năm 2020, thu thập đƣợc 123 liên kết có nội dung chứa từ liên quan đến ―phát sốt‖. Sau khi loại bỏ các trƣờng hợp nhƣ ―khởi phát sốt‖, ―bùng phát sốt xuất huyết‖, các từ nhƣ ―sốt‖, ―bị sốt‖, ―cơn sốt‖, ―phát sốt‖ đƣợc thống kê tần suất sử dụng. Kết quả thống kê (biểu đồ 1) cho thấy xu hƣớng sử dụng một từ ―sốt‖ trong tiếng Việt chiếm số đông. Riêng ―phát sốt‖ đa số đƣợc sử dụng với tầng nghĩa tăng đột ngột về cảm xúc nhƣ các ví dụ ―'Phát sốt' với phiên bản 'Anh không đòi quà' của vợ chồng Hoài Linh‖, ―Phát Sốt Với Hàng Loạt Ảnh Chuột Mickey Tại Việt Nam‖, ―Mỹ phát sốt khi Nga lập 6 căn cứ tại châu Phi ‖. Có 7 liên kết sử dụng ―phát sốt‖ với tầng nghĩa là tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng, trong đó 5 liên kết đến từ các bản dịch truyện ngôn tình đƣợc dịch và đăng tải miễn phí, 2 liên kết có nội dung liên quan đến y học đƣợc phòng khám tƣ nhân biên tập và đăng tải. Theo Nguyễn Thiện Giáp (2015, tr. 285)―Nhiều từ Hán- Việt đƣợc tiếp nhận vào Việt Nam từ lâu, chúng đã trở thành một bộ phận hữu cơ của từ vựng tiếng Việt. Ngƣời Việt đã sử dụng những từ gốc Hán đó làm chất liệu để cấu tạo nên những đơn vị từ vựng mới theo cách của Việt Nam, cho nên chúng ta không thể tìm thấy một từ ngữ nào tƣơng đƣơng trong tiếng Hán hiện nay‖. ―phát sốt‖ là đơn vị từ vựng đƣợc cấu tạo bởi yếu tố Hán Việt kết hợp yếu tố thuần Việt. Ngƣời Việt sử dụng ―phát sốt‖ thƣờng không với nghĩa ―tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng‖. Biểu đồ 1: Khảo sát tần suất sử dụng cụm từ ―phát sốt‖ Câu (12) ―一层又一层‖ trong hoàn cảnh này không thể dịch là ―từng tầng từng tầng‖. Theo Từ điển tiếng Việt ―tầng‖ đƣợc định nghĩa là ―mặt phẳng ngang ngăn chia không gian thành những phần trên dƣới khác nhau về độ cao‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.900). Nhƣ vậy, việc sử dụng tầng trong bản dịch chỉ do yếu tố tác động là âm Hán-Việt chứ hoàn toàn không phù hợp với nghĩa từ tiếng Việt. Câu (13) cũng theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt ―tùy tiện‖ đƣợc giải thích ―1.tiện đâu làm đó, không có nguyên tắc nào cả; 2. Nhƣ tùy nghi (theo hoàn cảnh làm thế nào cho thích hợp)‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.1067). Qua định nghĩa tùy tiện chắc chắn không thể kết hợp thành công, nhƣng ngƣời học vẫn cho ra những bản dịch bị ảnh hƣởng nhiều bởi ngôn ngữ nguồn. sốt; 67,21 bị sốt; 0,82 cơn sốt; 1,62 phát sốt; 32,97 0 10 20 30 40 50 60 70 80 sốt bị sốt cơn sốt phát sốt Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 623 Câu (14) từ ―thƣợng tọa‖ trong tiếng Việt có định nghĩa nhƣ sau ―Chức trong Phật giáo, trên đại đức, dƣới hòa thƣợng‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.978), việc sử dụng thƣợng tọa hoặc chỗ thƣợng để dịch cho cụm ―上座‖ là lỗi sai từ vựng. Về câu (15) chúng tôi xin đƣợc dẫn lời của Lê Đình Khẩn về vấn đề dịch nhân danh địa danh ―Ít sử dụng âm Hán-Việt khi dịch nhân danh địa danh từ tiếng Hán sang tiếng Việt là bƣớc đầu hạn chế việc lạm dụng từ Hán, góp phần ngăn chặn xu hƣớng Hán hóa tiếng Việt‖ (Lê Đình Khẩn, 2007, tr.93). 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: việc so sánh đối chiếu đƣợc thực hiện trên bình diện ngữ pháp, bình diện ngữ nghĩa. So sánh đối chiếu đƣợc kết hợp với phƣơng pháp miêu tả để xác định nguyên nhân của lỗi dịch thuật khi ngƣời học tiến hành dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, từ đó, khái quát các tiêu chí phân loại lỗi ngôn ngữ trong quá trình dịch của sinh viên trong giai đoạn sơ cấp. Phƣơng pháp nghiên cứu định tính: chúng tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định tính bằng phỏng vấn nhóm gồm khoảng 5 giảng viên thƣờng xuyên giảng dạy môn, đƣa ra trƣớc các lỗi sai đƣợc chúng tôi quan sát và thu thập trong thời gian giảng dạy, sau đó đƣa những câu hỏi để sinh viên thực hành dịch. Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng: đối tƣợng khảo sát của bài nghiên cứu là sinh viên năm thứ nhất (giai đoạn sơ cấp) ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thời gian học tiếng Hán của sinh viên dao động bình qua từ 10 đến 24 tháng (một số sinh viên đã học tiếng Hán trƣớc khi tham gia khóa học). Các sinh viên này học cùng một lớp và đều tham gia học môn dịch sơ cấp với hai học phần là dịch sơ cấp 1 và dịch sơ cấp 2, từ đó thu thập và kiểm chứng lại các lỗi mà ngƣời học đã mắc phải trong quá trình thực hành. Khảo sát bài thực hành dịch của sinh viên đƣợc tiếng hành 2 lần, với nhóm sinh viên gồm 39 sinh viên. Các lƣợt khảo sát cách nhau khoảng 3 tháng, lần lƣợt vào cuối kỳ của môn dịch sơ cấp 1 và cuối kỳ của môn dịch sơ cấp 2. 4. Kết quả nghiên cứu Thông qua dữ liệu khảo sát trên bài thực hành dịch của sinh viên chúng tôi có thể đƣa ra một số nhận xét nhƣ sau: (1) Những lỗi sai dự đoán đƣợc đƣa ra đều thể hiện trên thực tế trong quá trình thực hành dịch. (2) Qua quá trình học tập ngƣời học vẫn tiếp tục mắc những lỗi sai về dịch thuật, mặc dù tỉ lệ có chiều hƣớng giảm. (3) Việc đƣa những lỗi sai này vào thang lỗi sẽ góp phần cụ thể hóa hơn cho việc xác lập thang điểm, phân loại đƣợc khả năng chuyển ngữ của ngƣời học. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 624 Biểu đồ 2: Thống kê lỗi sai ngôn ngữ Bảng 1: Đề xuất các tiêu chí cho thang lỗi Thang lỗi Cách nhận biết lỗi câu chữ ―把‖ Vận dụng cách biểu hiện ―đem+tân ngữ‖ với nhiều động từ khác nhau câu chữ被‖ Dùng ―bị‖ trong diễn đạt các giới từ tiếng Hán ―在‖, ―跟‖, ―向‖, ―往‖ Vị trí của giới từ trong tiếng Việt đƣợc sắp xếp đồng nhất với tiếng Hán trong mọi trƣờng hợp Lỗi từ vựng do âm Hán-Việt Lạm dụng âm Hán-Việt trong nhiều trƣờng hợp, gây xa lạ cho biểu đạt của câu tiếng Việt 5.Thảo luận và Đề xuất hoặc Kiến nghị Vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học so sánh đối chiếu tiến hành dự đoán lỗi sai ngôn ngữ trong quá trình thực hành dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích, sau đó kiểm chứng lại bằng việc khảo sát bài thực hành của sinh viên, cuối cùng sử dụng kho ngữ liệu hoặc lý thuyết ngôn ngữ học để giải thích đƣợc cho những phán đoán đạt chuẩn hay không đạt chuẩn dịch thuật. Nguyễn Thƣợng Hùng (2005) có phần diễn giải về cách tiếp cận khác nhau về nghiên cứu bản dịch giữa các nhà ngữ học và các nhà nghiên cứu lý thuyết dịch. Các nhà ngữ học khi nghiên cứu lý thuyết dịch thƣờng có xu hƣớng đi sau tìm hiểu những vấn đề lý luận từ góc độ ngôn ngữ học, điều này tuy cần thiết, nhƣng lại không đƣa ra đƣợc những gợi ý, giải pháp hay những điểm cần chú ý để ngƣời dịch có thể vận dụng lý thuyết đó vào thực tiễn. Trong khi đó đại đa số những ngƣời làm công tác biên phiên dịch lại không đúc kết, khái quát, nâng lên thành lý luận những điều đã trải nghiệm trong công tác dịch của mình. Bài viết đề xuất các tiêu chí bƣớc đầu hình thành thang lỗi trong đánh giá dịch thuật phải dựa vào lý thuyết ngôn ngữ để phân tích lỗi, nhƣng mục tiêu chủ yếu là khái quát hóa các lỗi trở thành những tiêu chí góp phần chuẩn hóa các công cụ đánh giá trong việc xây dựng môn dịch trong giảng dạy. Từ đó thiết lập đƣợc mục tiêu đào tạo của đề cƣơng chi tiết và xây dựng ma trận đề thi với tỉ lệ các câu hỏi nhấn mạnh vào việc kiểm tra đƣợc kỹ năng nhận biết về các điểm dễ mắc lỗi của ngƣời học. Thang đo không chỉ giúp cho phía đào tạo là nhà trƣờng, khoa, bộ môn và giáo viên xác lập những thang đo trong quá trình giảng dạy, mà giúp ngƣời tham gia đào tạo hiểu rõ chuẩn đầu ra của môn học đƣợc đào tạo, ngƣời học xử lý đƣợc các vấn đề đƣa ra trong thang lỗi đồng nghĩa với việc đạt đƣợc chuẩn đầu ra của môn học. 66,67 71,79 28,21 48,72 53,85 25,64 17,95 43,59 60,26 48,72 23,08 46,15 0,00 10,00 20,00 30,00 40,00 50,00 60,00 70,00 80,00 Câu chữ被” Câu chữ “把” Giới từ tiếng Hán “在”, “跟”, “向”, “往” Lỗi từ vựng do âm Hán-Việt Khảo sát lần 1 Khảo sát lần 2 Bình quân Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 625 6. Kết luận Giảng dạy tiếng Hán cho sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc chắc chắn phải có điểm ƣu việt hơn so với giảng dạy tiếng Hán ở các trung tâm ngoại ngữ hoặc ngoại ngữ hai. Làm nên sự khác biệt ngoài việc tăng cƣờng rèn luyện nghe, nói, đọc, viết sinh viên cần phải học đƣợc kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ từ Hán sang Việt và từ Việt sang Hán. Để làm đƣợc điều đó thì các môn dịch từ trình độ sơ cấp đến cao cấp phải hoàn thiện các tiêu chí của môn học và đƣa rõ vào chƣơng trình đào tạo. Xây dựng hệ thống các tiêu chí chấm bài môn dịch là việc vô cùng cần thiết cho quá trình giảng dạy cũng nhƣ đánh giá kết quả học tập của ngƣời học. Bài viết này chỉ mới bƣớc đầu xây dựng thang lỗi trong tiêu chí chấm bài môn dịch ở trình độ sơ cấp. Trong tƣơng lai cần phải phát triển cao hơn trong việc xây dựng tiêu chí chấm bài thi môn dịch cho mọi trình độ của ngƣời học trong theo chƣơng trình đào tạo đã quy định. Tài liệu tham khảo Lƣu Hớn Vũ & Nguyễn Ngọc Phƣơng Dung. (2016). Giảng dạy biên phiên dịch cho sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc: những vấn đề tồn tại và kiến nghị. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch bậc đại học, tr 346-356. Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trƣờng, Võ Xuân Trang, & Trần Thị Tuyết Mai. (2009). Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Khoa học Xã hội. Hồ Lê, Trần Thị Ngọc Lang, Tô Đình Nghĩa. (2002). Lỗi từ vựng và cách khắc phục. TP. HCM: NXB Khoa học Xã hội. Hoàng Phê Chủ biên (2005). Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đà Nẵng. Hoàng Văn Vân (2005). Nghiên cứu dịch thuật. TP.HCM: NXB Khoa học xã hội. Lê Đình Khẩn (2007). Phiên dịch Việt Hán-Hán Việt. TP.HCM: NXB Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh. Nguyễn Thành Nhân. (2016). Đánh giá kết quả học tập môn học theo định hướng phát triển năng lực của sinh viên. TP. HCM: NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Kiều Thu (2016). Đánh giá bản dịch: Tiêu chí chấm bài thi môn Biên dịch trong các trƣờng đại học. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch bậc đại học, tr. 55-59. Nguyễn Thiện Giáp. (2015). Từ và từ vựng học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thƣợng Hùng. (2005). Dịch thuật: từ lý thuyết đến thực hành. TP.HCM: NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Phan Văn Các, Phạm Đình Cầu, Nguyễn Duy Chiếm, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Quý Hữu, Lê Khả Kế, Huỳnh Lứa, Lê Đức Niệm, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Đức Sâm, Lê Xuân Thại, Lê Huy Tiêu. (2006). TP. HCM: NXB Khoa học Xã hội. Farrús Cabeceran, Mireia, Ruiz Costa-Jussà, Marta, Mariño Acebal, José Bernardo, & Rodríguez Fonollosa, José Adrián. (2010). Linguistic-based evaluation criteria to identify statistical machine translation errors. Paper presented at the 14th Annual Conference of the European Association for Machine Translation. Martínez Melis, Nicole, & Hurtado Albir, Amparo J Meta: journal des traducteurs/Meta: Translators' Journal. (2001). Assessment in translation studies: Research needs. 46(2), 272-287. Yildiz, Mehmet (2020). A critical perspective on translation quality assessments of five translators‘ organizations: ATA, CTTIC, ITI, NAATI, and SATI. RumeliDE Dil ve Edebiyat Araştırmaları Dergisi, (18), 568-589. Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy ngôn ngữ lần thứ VI 626 PROPOSING ASSESSMENT CRITERIA THROUGH CHINESE TO VIETNAMESE TRANSLATION PRACTICES BY STUDENTS AT ELEMENTERY LEVEL: A CASE STUDY IN FACULTY OF CHINESE LINGUISTICS AND LITERATURE, USSH, VNU Abstract Current situation of evaluating translations in general, the translations from Chinese into Vietnamese in particular is lack of assessment criteria. Therefore, assessment criteria is an urgent issue for objective evaluation of student learning outcomes. The study aims at detecting and identifing the most common linguistics errors in students‘ exercises and exams. Combining Chinese-Vietnamese translation theories and translation errors analysis theories approaches to standarize assessment criteria. Keywords errors analysis, Vietnamese, assessment criteria, correcting scales, elementery level
File đính kèm:
- de_xuat_cac_tieu_chi_xac_dinh_loi_ngon_ngu_qua_khao_sat_cac.pdf