Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp

Trong quá trình giảng dạy phiên dịch, nhất là đánh giá kết quả học tập phần phiên dịch từ

tiếng Hán sang tiếng Việt. Vì vậy cụ thể hóa thang độ lỗi và thang điểm là một vấn đề cấp

thiết.Nhằm xây dựng thang độ lỗi để xác định kiểu lỗi trong bài tập cũng nhƣ bài thi của

sinh viên, bài nghiên cứu từ dữ liệu thực tế về lỗi sai của bản dịch kết hợp với lý thuyết

dịch Hán Việt, lý thuyết phân tích bản dịch đề xuất một số chuẩn mực để hình thành

thang độ lỗi cho việc đánh giá bản dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt ở trình độ sơ cấp

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 1

Trang 1

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 2

Trang 2

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 3

Trang 3

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 4

Trang 4

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 5

Trang 5

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 6

Trang 6

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 7

Trang 7

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 8

Trang 8

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 9

Trang 9

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 5860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp

Đề xuất các tiêu chí xác định lỗi ngôn ngữ qua khảo sát các bản dịch từ Hán sang Việt của sinh viên ở trình độ sơ cấp
 lý thuyết là nguyên nhân lỗi của từ vựng, 
những lỗi sai chúng tôi thu thập đƣợc chủ yếu lỗi từ vựng do quá trung thành với ngôn ngữ 
nguồn, ƣu tiên lựa chọn cách đọc Hán-Việt trong bản dịch. Theo Lê Đình Khẩn (2007, tr.87) 
―Nhiều ngƣời đã không phân biệt đƣợc, hoặc cố tình không cần phân biệt sự khác nhau giữa 
quá trình phiên dịch Hán-Việt và phiên âm Hán-Việt, nên trong rất nhiều trƣờng hợp ngƣời ta 
đã dùng lối phiên âm Hán-Việt để thay cho phiên dịch Hán-Việt. Chẳng hạn, khi phiên dịch 
một văn bản tiếng Hán sang tiếng Việt, hễ gặp phải những từ ngữ khó hiểu, khó xử lý, ngƣời 
dịch lập tức nghĩ ngay đến ―âm đọc Hán-Việt‖. Nó có thể giúp ngƣời dịch gỡ thế bí bằng thao 
tác cực kỳ đơn giản, ai cũng có thể làm đƣợc, đó là phiên âm...Tùy theo trình độ và lƣơng tâm 
ngƣời dịch mà số lƣợng các đơn vị Hán giả Việt có nhiều hay ít trong bản dịch tiếng Việt. 
Không phải bây giờ, mà từ lâu, việc lạm dụng âm đọc Hán-Việt đã trở thành một căn bệnh 
nan y trong ngành phiên dịch Hán-Việt‖. Thông qua khảo sát của chúng tôi nhận định trên là 
hoàn toàn có căn cứ. 
 Ví dụ: 
(11)昨天我没量体温,但感觉有点发烧 
Bản dịch của sinh viên: Hôm qua, tôi chƣa đo nhiệt độ cơ thể nhƣng cảm thấy phát sốt một 
chút. 
(12)他用那双颤抖的小手拿旧报纸将月饼包了一层又一层,小心地放在篮子里。 
Bản dịch của sinh viên: Anh ấy dùng đôi tay khéo léo đó cầm gói bánh trung thu đƣợc bọc 
trong giấy báo cũ từng tầng từng tầng một, cẩn thận bỏ vào rổ. 
(13)我心中由唱起了这支歌:丌经历风雨怎么见彩虹,没有人能随随便便成功。 
Bản dịch của sinh viên: Trong lòng của tôi lại hát lên bài hát này, không trải qua mƣa gió làm 
sao thấy đƣợc cầu vồng, không có ai có thể tùy tiện thành công. 
(14)首先,要请重要的客人、老师、领导和长辈上座。 
Bản dịch của sinh viên: Đầu tiên, cần phải mời những vị khách quan trọng, thầy cô giáo, lãnh 
đạo hay các trƣởng bối ngồi ở thƣợng tọa/chỗ thƣợng. 
(15)她是日本人,她叫山本,家在东京。 
Bản dịch của sinh viên: Cô ấy là ngƣời Nhật, tên là Sơn Bổn, nhà ở Đông Kinh. 
 Câu (11) từ 发烧 đƣợc dịch thành ―phát sốt‖, có thể thấy cách sử dụng chịu sự ảnh 
hƣởng bởi âm Hán-Việt. Theo Từ điển Trung Việt发烧 đƣợc giải thích là ―sốt‖ (Phan Văn 
Các, 2006, tr. 327). Định nghĩa của từ điển tiếng Việt về sốt ―1 Tăng nhiệt độ cơ thể lên quá 
mức bình thƣờng, do bị bệnh; 2 (thƣờng dùng cơn sốt) Tăng nhu cầu đột, làm cho hàng trở 
nên khan hiếm‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr. 868). Riêng về ―phát sốt‖ hiện chƣa chƣa 
xuất hiện trong mục từ của từ điển, nhƣng giữa lý thuyết và thực hành lúc nào cũng có một 
khoảng cách, trong ngôn ngữ giữa từ điển và thực tế cũng có khoảng cách nhất định. Do hiện 
tại chúng tôi chƣa thể tiếp cận đƣợc kho ngữ liệu tiếng Việt, nên đành sử dụng công cụ tìm 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 622 
kiếm Google để kiểm chứng xu hƣớng tần suất sử dụng của ―phát sốt‖. Chúng tôi nhập ―phát 
sốt‖ vào phần tìm kiếm của Google vào ngày 30 tháng 09 năm 2020, thu thập đƣợc 123 liên 
kết có nội dung chứa từ liên quan đến ―phát sốt‖. Sau khi loại bỏ các trƣờng hợp nhƣ ―khởi 
phát sốt‖, ―bùng phát sốt xuất huyết‖, các từ nhƣ ―sốt‖, ―bị sốt‖, ―cơn sốt‖, ―phát sốt‖ đƣợc 
thống kê tần suất sử dụng. Kết quả thống kê (biểu đồ 1) cho thấy xu hƣớng sử dụng một từ 
―sốt‖ trong tiếng Việt chiếm số đông. Riêng ―phát sốt‖ đa số đƣợc sử dụng với tầng nghĩa 
tăng đột ngột về cảm xúc nhƣ các ví dụ ―'Phát sốt' với phiên bản 'Anh không đòi quà' của vợ 
chồng Hoài Linh‖, ―Phát Sốt Với Hàng Loạt Ảnh Chuột Mickey Tại Việt Nam‖, ―Mỹ phát sốt 
khi Nga lập 6 căn cứ tại châu Phi ‖. Có 7 liên kết sử dụng ―phát sốt‖ với tầng nghĩa là tăng 
nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng, trong đó 5 liên kết đến từ các bản dịch truyện ngôn 
tình đƣợc dịch và đăng tải miễn phí, 2 liên kết có nội dung liên quan đến y học đƣợc phòng 
khám tƣ nhân biên tập và đăng tải. Theo Nguyễn Thiện Giáp (2015, tr. 285)―Nhiều từ Hán-
Việt đƣợc tiếp nhận vào Việt Nam từ lâu, chúng đã trở thành một bộ phận hữu cơ của từ vựng 
tiếng Việt. Ngƣời Việt đã sử dụng những từ gốc Hán đó làm chất liệu để cấu tạo nên những 
đơn vị từ vựng mới theo cách của Việt Nam, cho nên chúng ta không thể tìm thấy một từ ngữ 
nào tƣơng đƣơng trong tiếng Hán hiện nay‖. ―phát sốt‖ là đơn vị từ vựng đƣợc cấu tạo bởi yếu 
tố Hán Việt kết hợp yếu tố thuần Việt. Ngƣời Việt sử dụng ―phát sốt‖ thƣờng không với nghĩa 
―tăng nhiệt độ cơ thể lên quá mức bình thƣờng‖. 
Biểu đồ 1: Khảo sát tần suất sử dụng cụm từ ―phát sốt‖ 
 Câu (12) ―一层又一层‖ trong hoàn cảnh này không thể dịch là ―từng tầng từng tầng‖. 
Theo Từ điển tiếng Việt ―tầng‖ đƣợc định nghĩa là ―mặt phẳng ngang ngăn chia không gian 
thành những phần trên dƣới khác nhau về độ cao‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.900). Nhƣ 
vậy, việc sử dụng tầng trong bản dịch chỉ do yếu tố tác động là âm Hán-Việt chứ hoàn toàn 
không phù hợp với nghĩa từ tiếng Việt. 
 Câu (13) cũng theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt ―tùy tiện‖ đƣợc giải thích ―1.tiện 
đâu làm đó, không có nguyên tắc nào cả; 2. Nhƣ tùy nghi (theo hoàn cảnh làm thế nào cho 
thích hợp)‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.1067). Qua định nghĩa tùy tiện chắc chắn không 
thể kết hợp thành công, nhƣng ngƣời học vẫn cho ra những bản dịch bị ảnh hƣởng nhiều bởi 
ngôn ngữ nguồn. 
sốt; 67,21 
bị sốt; 0,82 cơn sốt; 1,62 
phát sốt; 32,97 
0
10
20
30
40
50
60
70
80
sốt bị sốt cơn sốt phát sốt 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 623 
 Câu (14) từ ―thƣợng tọa‖ trong tiếng Việt có định nghĩa nhƣ sau ―Chức trong Phật giáo, 
trên đại đức, dƣới hòa thƣợng‖ (Hoàng Phê Chủ biên, 2005, tr.978), việc sử dụng thƣợng tọa 
hoặc chỗ thƣợng để dịch cho cụm ―上座‖ là lỗi sai từ vựng. 
 Về câu (15) chúng tôi xin đƣợc dẫn lời của Lê Đình Khẩn về vấn đề dịch nhân danh địa 
danh ―Ít sử dụng âm Hán-Việt khi dịch nhân danh địa danh từ tiếng Hán sang tiếng Việt là 
bƣớc đầu hạn chế việc lạm dụng từ Hán, góp phần ngăn chặn xu hƣớng Hán hóa tiếng Việt‖ 
(Lê Đình Khẩn, 2007, tr.93). 
3. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: việc so sánh đối chiếu đƣợc thực hiện trên bình diện 
ngữ pháp, bình diện ngữ nghĩa. So sánh đối chiếu đƣợc kết hợp với phƣơng pháp miêu tả để 
xác định nguyên nhân của lỗi dịch thuật khi ngƣời học tiến hành dịch từ tiếng Hán sang tiếng 
Việt, từ đó, khái quát các tiêu chí phân loại lỗi ngôn ngữ trong quá trình dịch của sinh viên 
trong giai đoạn sơ cấp. 
Phƣơng pháp nghiên cứu định tính: chúng tôi sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu định 
tính bằng phỏng vấn nhóm gồm khoảng 5 giảng viên thƣờng xuyên giảng dạy môn, đƣa ra 
trƣớc các lỗi sai đƣợc chúng tôi quan sát và thu thập trong thời gian giảng dạy, sau đó đƣa 
những câu hỏi để sinh viên thực hành dịch. 
Phƣơng pháp nghiên cứu định lƣợng: đối tƣợng khảo sát của bài nghiên cứu là sinh 
viên năm thứ nhất (giai đoạn sơ cấp) ngành ngôn ngữ Trung Quốc tại Đại học Khoa học Xã 
hội và Nhân văn, thời gian học tiếng Hán của sinh viên dao động bình qua từ 10 đến 24 tháng 
(một số sinh viên đã học tiếng Hán trƣớc khi tham gia khóa học). Các sinh viên này học cùng 
một lớp và đều tham gia học môn dịch sơ cấp với hai học phần là dịch sơ cấp 1 và dịch sơ cấp 
2, từ đó thu thập và kiểm chứng lại các lỗi mà ngƣời học đã mắc phải trong quá trình thực 
hành. Khảo sát bài thực hành dịch của sinh viên đƣợc tiếng hành 2 lần, với nhóm sinh viên 
gồm 39 sinh viên. Các lƣợt khảo sát cách nhau khoảng 3 tháng, lần lƣợt vào cuối kỳ của môn 
dịch sơ cấp 1 và cuối kỳ của môn dịch sơ cấp 2. 
4. Kết quả nghiên cứu 
 Thông qua dữ liệu khảo sát trên bài thực hành dịch của sinh viên chúng tôi có thể đƣa ra 
một số nhận xét nhƣ sau: 
(1) Những lỗi sai dự đoán đƣợc đƣa ra đều thể hiện trên thực tế trong quá trình thực hành 
dịch. 
(2) Qua quá trình học tập ngƣời học vẫn tiếp tục mắc những lỗi sai về dịch thuật, mặc dù tỉ lệ 
có chiều hƣớng giảm. 
(3) Việc đƣa những lỗi sai này vào thang lỗi sẽ góp phần cụ thể hóa hơn cho việc xác lập 
thang điểm, phân loại đƣợc khả năng chuyển ngữ của ngƣời học. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 624 
Biểu đồ 2: Thống kê lỗi sai ngôn ngữ 
Bảng 1: Đề xuất các tiêu chí cho thang lỗi 
Thang lỗi Cách nhận biết lỗi 
câu chữ ―把‖ Vận dụng cách biểu hiện ―đem+tân ngữ‖ với nhiều động từ khác nhau 
câu chữ被‖ Dùng ―bị‖ trong diễn đạt các 
giới từ tiếng Hán ―在‖, 
―跟‖, ―向‖, ―往‖ 
Vị trí của giới từ trong tiếng Việt đƣợc sắp xếp đồng nhất với tiếng Hán 
trong mọi trƣờng hợp 
Lỗi từ vựng do âm 
Hán-Việt 
Lạm dụng âm Hán-Việt trong nhiều trƣờng hợp, gây xa lạ cho biểu đạt 
của câu tiếng Việt 
5.Thảo luận và Đề xuất hoặc Kiến nghị 
 Vận dụng lý thuyết ngôn ngữ học so sánh đối chiếu tiến hành dự đoán lỗi sai ngôn ngữ 
trong quá trình thực hành dịch từ ngôn ngữ nguồn sang ngôn ngữ đích, sau đó kiểm chứng lại 
bằng việc khảo sát bài thực hành của sinh viên, cuối cùng sử dụng kho ngữ liệu hoặc lý thuyết 
ngôn ngữ học để giải thích đƣợc cho những phán đoán đạt chuẩn hay không đạt chuẩn dịch 
thuật. Nguyễn Thƣợng Hùng (2005) có phần diễn giải về cách tiếp cận khác nhau về nghiên 
cứu bản dịch giữa các nhà ngữ học và các nhà nghiên cứu lý thuyết dịch. Các nhà ngữ học khi 
nghiên cứu lý thuyết dịch thƣờng có xu hƣớng đi sau tìm hiểu những vấn đề lý luận từ góc độ 
ngôn ngữ học, điều này tuy cần thiết, nhƣng lại không đƣa ra đƣợc những gợi ý, giải pháp hay 
những điểm cần chú ý để ngƣời dịch có thể vận dụng lý thuyết đó vào thực tiễn. Trong khi đó 
đại đa số những ngƣời làm công tác biên phiên dịch lại không đúc kết, khái quát, nâng lên 
thành lý luận những điều đã trải nghiệm trong công tác dịch của mình. Bài viết đề xuất các 
tiêu chí bƣớc đầu hình thành thang lỗi trong đánh giá dịch thuật phải dựa vào lý thuyết ngôn 
ngữ để phân tích lỗi, nhƣng mục tiêu chủ yếu là khái quát hóa các lỗi trở thành những tiêu chí 
góp phần chuẩn hóa các công cụ đánh giá trong việc xây dựng môn dịch trong giảng dạy. Từ 
đó thiết lập đƣợc mục tiêu đào tạo của đề cƣơng chi tiết và xây dựng ma trận đề thi với tỉ lệ 
các câu hỏi nhấn mạnh vào việc kiểm tra đƣợc kỹ năng nhận biết về các điểm dễ mắc lỗi của 
ngƣời học. Thang đo không chỉ giúp cho phía đào tạo là nhà trƣờng, khoa, bộ môn và giáo 
viên xác lập những thang đo trong quá trình giảng dạy, mà giúp ngƣời tham gia đào tạo hiểu 
rõ chuẩn đầu ra của môn học đƣợc đào tạo, ngƣời học xử lý đƣợc các vấn đề đƣa ra trong 
thang lỗi đồng nghĩa với việc đạt đƣợc chuẩn đầu ra của môn học. 
66,67 
71,79 
28,21 
48,72 
53,85 
25,64 
17,95 
43,59 
60,26 
48,72 
23,08 
46,15 
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
70,00
80,00
Câu chữ被” Câu chữ “把” Giới từ tiếng Hán 
“在”, “跟”, “向”, “往” 
Lỗi từ vựng do âm 
Hán-Việt 
Khảo sát lần 1 Khảo sát lần 2 Bình quân
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 625 
6. Kết luận 
 Giảng dạy tiếng Hán cho sinh viên ngành Ngôn ngữ Trung Quốc chắc chắn phải có 
điểm ƣu việt hơn so với giảng dạy tiếng Hán ở các trung tâm ngoại ngữ hoặc ngoại ngữ hai. 
Làm nên sự khác biệt ngoài việc tăng cƣờng rèn luyện nghe, nói, đọc, viết sinh viên cần phải 
học đƣợc kỹ năng chuyển đổi ngôn ngữ từ Hán sang Việt và từ Việt sang Hán. Để làm đƣợc 
điều đó thì các môn dịch từ trình độ sơ cấp đến cao cấp phải hoàn thiện các tiêu chí của môn 
học và đƣa rõ vào chƣơng trình đào tạo. Xây dựng hệ thống các tiêu chí chấm bài môn dịch là 
việc vô cùng cần thiết cho quá trình giảng dạy cũng nhƣ đánh giá kết quả học tập của ngƣời 
học. Bài viết này chỉ mới bƣớc đầu xây dựng thang lỗi trong tiêu chí chấm bài môn dịch ở 
trình độ sơ cấp. Trong tƣơng lai cần phải phát triển cao hơn trong việc xây dựng tiêu chí chấm 
bài thi môn dịch cho mọi trình độ của ngƣời học trong theo chƣơng trình đào tạo đã quy định. 
Tài liệu tham khảo 
Lƣu Hớn Vũ & Nguyễn Ngọc Phƣơng Dung. (2016). Giảng dạy biên phiên dịch cho sinh viên ngành 
Ngôn ngữ Trung Quốc: những vấn đề tồn tại và kiến nghị. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch 
bậc đại học, tr 346-356. 
Cao Xuân Hạo, Lý Tùng Hiếu, Nguyễn Kiên Trƣờng, Võ Xuân Trang, & Trần Thị Tuyết Mai. (2009). 
Lỗi ngữ pháp và cách khắc phục. TP. Hồ Chí Minh: NXB Khoa học Xã hội. 
Hồ Lê, Trần Thị Ngọc Lang, Tô Đình Nghĩa. (2002). Lỗi từ vựng và cách khắc phục. TP. HCM: NXB 
Khoa học Xã hội. 
Hoàng Phê Chủ biên (2005). Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đà Nẵng. 
Hoàng Văn Vân (2005). Nghiên cứu dịch thuật. TP.HCM: NXB Khoa học xã hội. 
Lê Đình Khẩn (2007). Phiên dịch Việt Hán-Hán Việt. TP.HCM: NXB Đại học quốc gia TP.Hồ Chí 
Minh. 
Nguyễn Thành Nhân. (2016). Đánh giá kết quả học tập môn học theo định hướng phát triển năng lực 
của sinh viên. TP. HCM: NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 
Nguyễn Thị Kiều Thu (2016). Đánh giá bản dịch: Tiêu chí chấm bài thi môn Biên dịch trong các 
trƣờng đại học. Kỷ yếu hội thảo giảng dạy biên-phiên dịch bậc đại học, tr. 55-59. 
Nguyễn Thiện Giáp. (2015). Từ và từ vựng học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 
Nguyễn Thƣợng Hùng. (2005). Dịch thuật: từ lý thuyết đến thực hành. TP.HCM: NXB Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
Phan Văn Các, Phạm Đình Cầu, Nguyễn Duy Chiếm, Nguyễn Trọng Hiền, Nguyễn Quý Hữu, Lê Khả 
Kế, Huỳnh Lứa, Lê Đức Niệm, Nguyễn Văn Phát, Nguyễn Đức Sâm, Lê Xuân Thại, Lê Huy Tiêu. 
(2006). TP. HCM: NXB Khoa học Xã hội. 
Farrús Cabeceran, Mireia, Ruiz Costa-Jussà, Marta, Mariño Acebal, José Bernardo, & Rodríguez 
Fonollosa, José Adrián. (2010). Linguistic-based evaluation criteria to identify statistical machine 
translation errors. Paper presented at the 14th Annual Conference of the European Association for 
Machine Translation. 
Martínez Melis, Nicole, & Hurtado Albir, Amparo J Meta: journal des traducteurs/Meta: Translators' 
Journal. (2001). Assessment in translation studies: Research needs. 46(2), 272-287. 
Yildiz, Mehmet (2020). A critical perspective on translation quality assessments of five translators‘ 
organizations: ATA, CTTIC, ITI, NAATI, and SATI. RumeliDE Dil ve Edebiyat Araştırmaları 
Dergisi, (18), 568-589. 
Kỷ yếu điện tử Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu liên ngành về Ngôn ngữ và Giảng dạy 
ngôn ngữ lần thứ VI 
 626 
PROPOSING ASSESSMENT CRITERIA THROUGH CHINESE TO 
VIETNAMESE TRANSLATION PRACTICES BY STUDENTS AT 
ELEMENTERY LEVEL: A CASE STUDY IN FACULTY OF CHINESE 
LINGUISTICS AND LITERATURE, USSH, VNU 
Abstract 
Current situation of evaluating translations in general, the translations from Chinese into Vietnamese 
in particular is lack of assessment criteria. Therefore, assessment criteria is an urgent issue for 
objective evaluation of student learning outcomes. The study aims at detecting and identifing the most 
common linguistics errors in students‘ exercises and exams. Combining Chinese-Vietnamese 
translation theories and translation errors analysis theories approaches to standarize assessment 
criteria. 
Keywords 
errors analysis, Vietnamese, assessment criteria, correcting scales, elementery level 

File đính kèm:

  • pdfde_xuat_cac_tieu_chi_xac_dinh_loi_ngon_ngu_qua_khao_sat_cac.pdf