Đánh giá tình hình sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành thông qua hình thức phỏng vấn trực tiếp trên 93 hộ nuôi tôm ở 3 tỉnh đại
diện cho 3 mô hình nuôi tôm ở ĐBSCL: Cà Mau (mô hình QCCT và tôm lúa), Bến Tre và Bạc Liêu
(mô hình BTC/TC). Kết quả khảo sát cho thấy đa số các hộ được phỏng vấn đều nhận thức được tầm
quan trọng của việc sử dụng chế phẩm vi sinh (CPVS) trong nuôi tôm. Đa số các hộ đánh giá việc
sử dụng CPVS có hiệu quả tốt. Các dòng CPVS sử dụng trong nuôi tôm bao gồm CPVS xử lý chất
hữu cơ, CPVS xử lý khí độc ở đáy ao, CPVS đối kháng Vibrio gây bệnh, CPVS bổ sung vào thức
ăn. Đặc biệt hai dòng CPVS xử lý khí độc và đối kháng Vibrio được sử dụng nhiều hơn bởi các hộ
nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh.
Kết quả khảo sát các mối tương quan cho thấy, mối tương quan giữa hình thức nuôi (mức độ thâm
canh) và mức độ đầu tư cho CPVS là mối tương quan chặt chẽ và có ý nghĩa về mặt thống kê (P =
0,001). Bên cạnh đó, mối tương quan giữa năng suất nuôi và mức độ đầu tư cho CPVS là không
có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Điều này cho thấy CPVS không phải là yếu tố quyết định đến năng
suất nuôi. Việc sử dụng CPVS cần được kết hợp với các yếu tố khác (chất lượng con giống, kỹ thuật
nuôi, quản lý môi trường và bệnh) nhằm đảm bảo cho sự thành công của một vụ nuôi tôm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá tình hình sử dụng chế phẩm vi sinh trong nuôi tôm ở đồng bằng sông Cửu Long
sinh xử lý nền đáy 100,0 50,0 50,0 2 Chế phẩm vi sinh xử lý nước 53,3 50,0 50,0 II Trong quá trình nuôi 1 Chế phẩm vi sinh xử lý chất hữu cơ 60,7 5,9 94,1 2 Chế phẩm vi sinh xử lý khí độc 53,3 0 100,0 3 Chế phẩm vi sinh đối kháng Vibrio 13,3 0 100,0 4 Chế phẩm vi sinh bổ sung thức ăn 43,3 0 100,0 Theo số liệu trong Bảng 7, đối với nhóm CPVS sử dụng để cải tạo ao trước khi thả tôm, đa số các hộ khảo sát ở Bạc Liêu quan tâm đến các CPVS xử lý chất hữu cơ tích lũy ở đáy ao sau một vụ nuôi, với 83,3% số hộ sử dụng và 64% số hộ đánh giá có hiệu quả tốt. Trong khi chỉ có 53,3% số hộ khảo sát có sử dụng CPVS xử lý nước, với 50% hộ đánh giá tốt. 89TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Đối với nhóm CPVS sử dụng trong quá trình nuôi tôm, một bức tranh khác biệt so với hai vùng còn lại đã được ghi nhận ở các hộ khảo sát ở tỉnh Bạc Liêu. Đa số hộ khảo sát không xem trọng việc xử lý chất hữu cơ trong quá trình nuôi. Đối với họ quan trọng hơn là vấn đề xử lý khí độc phát sinh ở đáy ao, các biện pháp làm giảm mật độ Vibrio trong ao, và việc bổ sung CPVS vào thức ăn để tăng cường sức đề kháng cho tôm nuôi. Kết quả khảo sát từ Bảng 7 cho thấy, tỉ lệ các hộ sử dụng CPVS đối kháng Vibrio và CPVS bổ sung thức ăn là ngang nhau (86,7%). Có 46,7% số hộ khảo sát sử dụng CPVS xử lý khí độc, trong khi chỉ có 10% sử dụng CPVS xử lý chất hữu cơ. Đa số các hộ đánh giá tốt về các loại CPVS mà họ đang sử dụng. Ngoại trừ đối với dòng sản phẩm xử lý chất hữu cơ, có 11,1% số hộ đánh giá là sản phẩm họ đang dùng là không có hiệu quả. Bảng 7. Tỉ lệ hộ sử dụng các loại CPVS trước khi thả tôm và trong quá trình nuôi tôm và mức độ đánh giá ở tỉnh Bạc Liêu. STT Loại CPVS Tỉ lệ hộ sử dụng (%) Tỉ lệ hộ đánh giá tốt (%) Tỉ lệ hộ đánh giá bình thường (%) I Trước khi thả tôm 1 Chế phẩm vi sinh xử lý nền đáy 83,3 64,0 36,0 2 Chế phẩm vi sinh xử lý nước 53,3 50,0 50,0 II Trong quá trình nuôi 1 Chế phẩm vi sinh xử lý chất hữu cơ 10,0 33,3 55,6 2 Chế phẩm vi sinh xử lý khí độc 46,7 64,3 35,7 3 Chế phẩm vi sinh đối kháng Vibrio 86,7 53,9 46,1 4 Chế phẩm vi sinh bổ sung thức ăn 86,7 53,8 46,2 3.3. Các thông số lúc thu hoạch và các mối tương quan Bảng 8. Các thông số lúc thu hoạch tôm (giá trị trung bình) của các hộ khảo sát. Thông số Cà Mau Bến Tre Bạc Liêu Năng suất tôm (tấn/ha/vụ) Tôm sú 1,76 5,1 QCCT chuyên tôm 0,33 Tôm lúa 0,13 Tôm thẻ chân trắng 6,3 6,4 Khối lượng tôm trung bình lúc thu hoạch (g/con) Tôm sú 27,2 19,92 32,2 Tôm thẻ chân trắng 17,09 11,3 Tỉ lệ sống (%) Tôm sú 27,3 51,7 46,6 Tôm thẻ chân trắng 53,68 62,9 Tổng chi phí nuôi tôm (triệu VNĐ/ha/vụ) 14,2 121,0 128,0 Chi phí đầu tư cho chế phẩm vi sinh (triệu VNĐ/ ha/vụ) 1,7 7,2 10,6 Tỉ lệ chi phí cho CPVS trên tổng chi phí (%) 11,4 5,59 14,2 90 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 8 trình bày các thông số lúc thu hoạch tôm cũng như tổng chi phí đầu tư cho nuôi tôm và tỉ lệ chi phí liên quan đến CPVS ở các hộ được khảo sát (thông tin của vụ nuôi trước liền kề). Các hộ khảo sát ở Cà Mau đại diện cho mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến nên năng suất không cao, năng suất tối đa không quá 1 tấn/ha/ vụ. Năng suất tôm thu hoạch giữa hai mô hình (QCCT chuyên tôm và tôm lúa) tương quan với mật độ thả nuôi. Mô hình tôm lúa có mật độ thả thưa hơn và năng suất trung bình cũng thấp hơn (0,13 tấn/ha/vụ), trong khi năng suất trung bình của của mô hình QCCT chuyên tôm là 0,33 tấn/ha/vụ. Khối lượng tôm lúc thu hoạch khá khác biệt giữa các hộ nuôi, thấp nhất là 5 g/con và cao nhất là 45 g/con. Tỉ lệ sống cũng khá dao động, từ 2% đến 77%. Tổng chi phí đầu tư cho nuôi tôm bởi các hộ ở Cà Mau là không cao, trung bình 14,2 triệu đồng/ha/vụ. Tỉ lệ đầu tư cho CPVS khá khác biệt giữa các hộ nuôi QCCT. Tỉ lệ đầu tư thấp nhất là 7% tính trên tổng chi phí, trong khi có một hộ (thuộc mô hình tôm lúa) sẵn sàng đầu tư đến 30% cho CPVS. Đối với các hộ nuôi ở Bến Tre, năng suất nuôi và khối lượng tôm lúc thu hoạch có sự biến động lớn giữa các hộ khác nhau. Năng suất trung bình của các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng (TCT) đạt 6,3 tấn/ha/vụ, cao hơn so với năng suất của các hộ nuôi tôm sú (chỉ đạt 1,76 tấn/ha/vụ). Cá biệt có hai hộ nuôi tôm TCT đạt năng suất 12,73 và 14,71 tấn/ha/vụ. Về khối lượng tôm và tỉ lệ sống lúc thu hoạch, không có khác biệt nhiều giữa các hộ nuôi tôm sú và tôm TCT. Nếu so sánh với mô hình nuôi tôm QCCT của Cà Mau thì tổng chi phí đầu tư cho nuôi tôm của các hộ ở Bến Tre là cao hơn (50 – 230 triệu đồng/ha/vụ). Chi phí đầu tư cho CPVS về giá trị tuyệt đối cũng cao hơn (7,2 triệu đồng/ha/vụ). Tuy nhiên nếu tính trên tỉ lệ phần trăm thì tỉ lệ đầu tư cho CPVS ở Bến Tre trung bình là 5,59%, thấp hơn so với mô hình nuôi QCCT ở Cà Mau. Đối với các hộ khảo sát ở tỉnh Bạc Liêu, mặc dù mức độ đầu tư cho nuôi tôm là khá cao (chi phí 25 – 174 triệu đồng/ha/vụ nuôi tôm), năng suất tôm nuôi của các hộ này chỉ đạt mức trung bình, với năng suất tối đa chỉ đạt 8 tấn/ha/ vụ đối với tôm TCT, thấp hơn so với các hộ nuôi ở tỉnh Bến Tre (đạt tối đa 14 tấn/ha/vụ). Ngược lại đối với tôm sú, năng suất nuôi và khối lượng tôm lúc thu hoạch của các hộ ở Bạc Liêu đạt cao hơn nhiều so với các hộ ở Bến Tre, với năng suất tôm sú đạt trung bình 5,1 tấn/ha/vụ, kích cỡ tôm lúc thu hoạch đạt 32,2 g/con. Tỉ lệ phần trăm chi phí đầu tư cho CPVS đạt trung bình 14,2%, cao nhất trong 3 vùng khảo sát. Việc phân loại hình thức nuôi theo mật độ thả và đối tượng nuôi, cũng như phân loại mức độ đầu tư cho CPVS dựa theo tỉ lệ phần trăm trên tổng chi phí đầu tư cho nuôi tôm, được dựa theo Bảng 9. Bảng 9. Phân loại hình thức nuôi và mức độ đầu tư cho CPVS. Hình thức nuôi Mật độ thả (con/m2) Mức độ đầu tư cho CPVS Tỉ lệ đầu tư (%) QCCT chuyên tôm < 10 Không đầu tư 0 Tôm lúa < 10 Đầu tư ít 1 – 10 Bán thâm canh Đầu tư trung bình 11 – 20 Tôm sú 10 – 30 Đầu tư nhiều 21 – 30 Tôm TCT 10 – 70 Thâm canh Tôm sú > 30 Tôm TCT > 70 91TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Để xác định mối tương quan giữa năng suất nuôi và mức độ đầu tư cho CPVS, chúng tôi phân loại năng suất nuôi theo 3 mức: năng suất thấp (< 1 tấn/ha/vụ), năng suất trung bình (1-8 tấn/ha/vụ) và năng suất cao (> 8 tấn/ha/vụ). Qua số liệu ở Bảng 11, cho thấy các hộ nuôi QCCT ở Cà Mau chỉ đạt năng suất ở mức thấp (< 1 tấn/ha/vụ). Đa số các hộ (57,6%) chỉ đầu tư ở mức thấp cho CPVS. Tuy nhiên cũng có 24,2% số hộ đầu tư ở mức trung bình và 3% đầu tư ở mức cao cho CPVS (> 20% so với tổng chi phí). Mối tương quan giữa hình thức nuôi và mức độ đầu tư cho CPVS được xác định dựa trên số liệu khảo sát trên 93 hộ ở 3 tỉnh Bến Tre, Bạc Liêu và Cà Mau, và được trình bày trong Bảng 10. Bảng này cho thấy đây là mối tương quan chặt và có ý nghĩa về mặt thống kê (P = 0,001, Chi-square test). Mức đầu tư ít được áp dụng bởi đa số các hộ khảo sát ở 3 mô hình QCCT chuyên tôm, tôm lúa và bán thâm canh, với tỉ lệ các hộ tương ứng là 52,9%, 62,5% và 93,3%. Trái lại ở mô hình nuôi tôm thâm canh (tập trung ở tỉnh Bến Tre và Bạc Liêu), đa số các hộ (53,3%) đã chọn mức đầu tư trung bình. Có 6,7% số hộ ở mô hình nuôi thâm canh mạnh dạn chọn mức đầu tư cao. Bảng 10. Tỉ lệ các hộ (%) với các mức độ đầu tư cho CPVS theo hình thức nuôi. Hình thức nuôi Mức độ đầu tư cho CPVS Tổng số P Không đầu tư Đầu tư ít Đầu tư trung bình Đầu tư nhiều % Số hộ (Chi- Square) QCCT chuyên tôm 5,9 52,9 41,2 0 100,0 17 0,001 Tôm lúa 25,0 62,5 6,25 6,25 100,0 16 Bán thâm canh 6,7 93,3 0 0 100,0 15 Thâm canh 4,4 35,6 53,3 6,7 100,0 45 Bảng 11. Tỉ lệ các hộ (%) với các mức độ đầu tư cho CPVS theo năng suất nuôi (Cà Mau). Mức độ đầu tư cho CPVS Tổng số P Năng suất Không đầu tư Đầu tư ít Đầu tư trung bình Đầu tư nhiều % Số hộ (Chi- Square) Năng suất thấp 15,2 57,6 24,2 3,0 100,0 33 - Tất cả 30 hộ khảo sát ở tỉnh Bạc Liêu đều đạt năng suất ở mức trung bình trong vụ nuôi trước liền kề. Đa số các hộ này (73,3%) đầu tư cho CPVS ở mức trung bình (Bảng 12). Bảng 12. Tỉ lệ các hộ (%) với các mức độ đầu tư cho CPVS theo năng suất nuôi (Bạc Liêu) Mức độ đầu tư cho CPVS Tổng số P Năng suất Không đầu tư Đầu tư ít Đầu tư trung bình Đầu tư nhiều % Số hộ (Chi- Square) Năng suất trung bình - 0,2 73,3 6,7 100,0 30 - 92 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Khác với hai vùng còn lại, các hộ phỏng vấn ở tỉnh Bến Tre đạt cả 3 mức năng suất thấp, trung bình và cao. Đa số các hộ (23/30 hộ) đạt năng suất trung bình. Nhưng khác với các hộ ở Bạc Liêu, đa số các hộ ở Bến Tre (78,3%) lại chọn mức đầu tư thấp. Ngay cả 2/3 hộ thành công với mức năng suất cao (> 8 tấn/ha) cũng chỉ đầu tư cho CPVS ở mức thấp. Đây là hai hộ nuôi tôm TCT và trong vụ nuôi vừa qua đạt năng suất 12 – 14 tấn/ha, nhưng mức đầu tư cho CPVS của hai hộ này chỉ ở mức 3 – 4% (Bảng 13). Bảng 13. Tỉ lệ các hộ (%) với các mức độ đầu tư cho CPVS theo năng suất nuôi (Bến Tre). Mức độ đầu tư cho CPVS Tổng số P Năng suất Không đầu tư Đầu tư ít Đầu tư trung bình Đầu tư nhiều % Số hộ (Chi- Square) Năng suất thấp - 100,0 - - 100,0 4 0,525 Năng suất trung bình 13,0 78,3 4,3 4,3 100,0 23 Năng suất cao - 66,7 33,3 - 100,0 3 Qua các kết quả ở Bảng 11, 12, 13, cho thấy việc đầu tư cho CPVS trong nuôi tôm là cần thiết, nhưng CPVS không phải là yếu tố duy nhất quyết định năng suất nuôi. Sự thành công của một vụ nuôi tôm còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác như con giống, thức ăn, công trình và kỹ thuật nuôi, quản lý môi trường và bệnh,. Bên cạnh đó, mối tương quan giữa năng suất nuôi và mức độ đầu tư cho CPVS của các hộ khảo sát ở Bến Tre là không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). III. KẾT LUẬN Qua kết quả khảo sát các nông hộ nuôi tôm có sử dụng CPVS ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Bến Tre đại diện cho ba mô hình nuôi tôm ở ĐBSCL, có thể rút ra một số kết luận như sau. 1. Đa số các hộ được khảo sát đều quan tâm đến việc xét nghiệm mầm bệnh trên tôm giống trước khi thả nuôi. Việc xét nghiệm mầm bệnh trên tôm phụ thuộc vào mức độ thâm canh của ao nuôi. Mô hình nuôi thâm canh và bán thâm canh có tỉ lệ các hộ gửi tôm đi xét nghiệm mầm bệnh cao hơn so với mô hình nuôi quảng canh cải tiến. 2. Hầu hết các hộ khảo sát ở cả ba mô hình (ngoại trừ 5 hộ ở mô hình tôm lúa ở Cà Mau) đều có sử dụng chế phẩm vi sinh như là giải pháp để quản lý môi trường và thay thế kháng sinh trong việc phòng trị bệnh trên tôm nuôi. Các loại chế phẩm vi sinh xử lý chất hữu cơ và xử lý khí độc trong môi trường chiếm tỉ lệ cao nhất. Tuy nhiên tỉ lệ các hộ đánh giá tốt về các loại CPVS họ đang sử dụng là chưa nhiều, chỉ chiếm 50 – 64% các hộ khảo sát. 3. Việc lựa chọn các loại chế phẩm vi sinh để sử dụng phụ thuộc nhiều vào sự tư vấn của các đại lý. Vai trò của các HTX/tổ hợp tác nuôi tôm hay của cán bộ khuyến ngư là chưa cao, ngoại trừ đối với các hộ được khảo sát ở Cà Mau. 4. Tỉ lệ chi phí đầu tư cho CPVS dao động khá lớn và chiếm từ 1 – 30% so với tổng chi phí. Có mối tương quan khá chặt giữa mức độ đầu tư cho CPVS và hình thức nuôi (P = 0,001), với 53,3% số hộ nuôi thâm canh đầu tư cho CPVS ở mức trung bình (11 – 20%). 5. Có mối tương quan giữa mức độ đầu tư cho CPVS và năng suất nuôi đối với các hộ được khảo sát ở hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. 6. Những kết quả khảo sát ở 93 hộ nuôi tôm cho thấy chế phẩm vi sinh không phải là yếu tố duy nhất quyết định đến năng suất và tỉ lệ sống của các mô hình nuôi tôm. Các yếu tố khác cần phải lưu ý bao gồm chất lượng con giống, kỹ thuật nuôi và các biện pháp quản lý môi trường và sức khỏe tôm nuôi, nhằm đảm bảo cho sự thành công của nghề nuôi tôm. 93TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 10 - THÁNG 12/2017 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Tạp chí Thủy sản Việt Nam, số 249 + 250, tháng 1/2017. Trang Thông tin điện tử Tổng cục thủy sản. http:// www.fistenet.gov.vn/e-nuoi-trong-thuy-san/ che-pham-sinh-hoc/tinh-hinh-su-dung-thuoc- va-che-pham-sinh-hoc-trong-nuoi-trong-thuy- san-tai-mot-so-tinh/ Tài liệu tiếng Anh Lyle-Frich LP., Romero-Beltrán E., and Páez- Osuna F., 2006. A survey on the use of chemical and biological products for shrimp farming in Sinaloa (NW Mecxico). Aquaculture Engineering. 35, 135-146. Tonguthai K., 2000. The use of chemicals in aquaculture in Thailand. In: Use of Chemicals in Aquaculture in Asia. Proceedings of the Meeting on the Use of Chemicals in Aquaculture in Asia, Tighauan, lloilo, Philippines, 20–22 May, pp. 207–220. STATUS OF PROBIOTIC APPLICATION IN SHRIMP FARMING PRACTICES IN THE MEKONG DELTA Nguyen Thi Ngoc Tinh1*, Nguyen Thi Thu Thuy1, Nguyen Duc Minh1, Vo Minh Son1, Trinh Quang Son1, Phan Van Trang1, Do Thi Phuong1, Tran Hoang Bich Ngoc1 ABSTRACT This study was carried out in an interview form for 93 shrimp farmers in the three provinces in the Mekong Delta: Ca Mau (representative of improved extensive and rice-fish models), Ben Tre and Bac Lieu (representatives of semi-intensive and intensive model). The results show that most of shrimp farmers is aware of the importance of probiotic usage in shrimp farming. Most of the interviewed farmers consider a good effectiveness of probiotic products that they have been using. There are four main types of probiotic products that are used routinely by shrimp farmers, namely the products for organic matter removal, for toxic gases treatment, for Vibrio elimination, and for in-feed addition. Among them, the products for toxic gases and Vibrio elimination are being used more frequently in comparison to other products by the semi-inetesive and intensive shrimp farming systems. There is a high correlation between the level of intensification and the level of investment on probiotic products, and this correlation is statistically significant (P = 0.001). Moreover, the correlation between shrimp yield (kg/ha/crop) and investment on probiotics is not statistically significant (P > 0.05). This means that probiotic usage is not an important factor driving for shrimp yield. Probiotics should be applied in combination with the other factors such as seed quality, husbandry techniques, environment and disease management to ensure the success of a shrimp production cycle. Keywords: effectiveness, investment level, probiotic, shrimp farming, shrimp yield. Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước Ngày nhận bài: 13/11/2017 Ngày thông qua phản biện: 10/12/2017 Ngày duyệt đăng: 15/12/2017 1 Department of Experimental Biology, Research Institute for Aquaculture No.2 *Email: ntngoctinh@gmail.com
File đính kèm:
- danh_gia_tinh_hinh_su_dung_che_pham_vi_sinh_trong_nuoi_tom_o.pdf