Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long

TÓM TẮT

Cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) là một trong những đối tượng cá ngoại lai hiện đang

xuất hiện ở ngoài tự nhiên trên các địa bàn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nghiên cứu về

sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính ở ĐBSCL được thực hiện từ 09/2012 đến tháng

06/2013 với các loại hình thủy vực được khảo sát là sông, kênh và ao tự nhiên tại 4 tỉnh An Giang,

Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang với 2 loại ngư cụ lưới cào và lưới kéo tay được sử dụng để thu

mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cá lau kính được ngư dân phát hiện ngoài tự nhiên từ năm 2001

và phát triển cho đến nay. Phân bố của cá lau kính rất rộng ở tất cả các loại hình thủy vực bao gồm

sông, kênh, ao đầm tự nhiên và chúng được bắt gặp ở tất cả các địa phương khảo sát ở An Giang,

Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang. Cá lau kính chiếm 0,82% tổng số cá thể và 4,64% tổng sản

lượng của mẻ lưới khai thác. Cá lau kính đánh bắt được nhiều nhất ở ao đầm tự nhiên, kế đến là

sông lớn và kênh rạch. Mức độ phong phú của cá lau kính cao nhất ở trong ao đầm tự nhiên (CPUEn

= 13±2 cá thể /100m2 và CPUE w = 178,34±22,95 g/100m2). Tuy cá lau kính có sự phân bố rộng và

mức độ phong phú thấp ở các thủy vực tự nhiên nhưng đây là loài cá ngoại lai xâm hại cần tiếp tục

nghiên cứu tiếp theo từ kết quả của đề tài này.

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 1

Trang 1

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 2

Trang 2

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 3

Trang 3

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 4

Trang 4

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 5

Trang 5

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 6

Trang 6

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 7

Trang 7

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 8

Trang 8

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 9

Trang 9

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 5000
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long

Đánh giá sự phân bố và mức độ phong phú của cá lau kính (Pterygoplichthys disjunctivus) ở một số thủy vực nội địa vùng đồng bằng sông Cửu Long
ong mẻ khai thác ở ba mức 
độ khác sau (Hoàng Thị Hiệp và ctv., 2009):
Mức 1: Rất phong phú: xuất hiện hầu hết 
trong mẻ khai thác với tần suất bắt gặp từ 51% 
đến 100%.
Mức 2: Phong phú: khi có tần suất bắt gặp 
từ 25 % đến 50%.
Mức 3: Kém phong phú: khi có tần suất bắt 
gặp nhỏ hơn 25%.
2.2.4.3. Phương pháp xác định sự ảnh 
hưởng của cá lau kính đến nguồn lợi thủy sản 
tự nhiên
Thông tin và số liệu liên quan được thu 
thập và tổng hợp từ chính quyền địa phương, 
các viện, trường và trên internet.
Điều tra khảo sát ngư dân thông qua phiếu 
phỏng vấn. Các thông tin liên quan được thu 
thập từ những ngư dân địa phương như: sự xuất 
hiện của cá lau kính, xu hướng biến động sản 
lượng của cá lau kính và các loài thuỷ sản bản 
địa, những loài bản địa ít bắt gặp hoặc không 
còn bắt gặp, cách khắc phục v.v. Số lượng ngư 
dân được phỏng vấn ở 4 tỉnh An Giang, Đồng 
Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang là 40 người được 
chia đều cho 4 tỉnh.
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu và viết 
báo cáo
Phần mềm Ms. Excel, Ms. Word được sử 
dụng để lưu trữ, phân tích dữ liệu và viết báo cáo.
III. KẾT QUẢ 
3.1 Sự phân bố của cá lau kính
Trong tổng số 58 mẻ khai thác (cào khung 
và lưới kéo tay) ở tất cả các điểm thu mẫu (An 
Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang) kết 
quả cho thấy cá lau kính phân bố nhiều nhất ở 
ao (36,84%), kế đến là ở kênh (31,58%) và sông 
(31,58%)(Hình 3).
19TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
(%
) P
hâ
n b
ố c
ủa
 cá
 la
u k
ín
h 
Hình 3: Tỉ lệ (%) phân bố của cá lau kính theo thủy vực ở các địa phương
Hình 3 cho thấy, địa bàn An Giang có 
cá lau kính phân bố nhiều nhất ở sông (50% 
trong mẻ khai thác), kế đến là ao (33,33%), 
thấp nhất là ở kênh (16,67%). Tiếp theo, ở Cần 
Thơ, cá lau kính phân bố ở ao và kênh có tỉ 
lệ như nhau (50%), không bắt gặp cá lau kính 
ở sông. Tương tự, ở Đồng Tháp cá lau kính 
chỉ phân bố ở ao và sông có tỉ lệ như nhau 
(50%), không bắt gặp cá lau kính ở kênh. Sở 
dĩ cá lau kính không được bắt gặp ở sông và 
kênh thuộc địa bàn Cần Thơ và Đồng Tháp là 
trong suốt quá trình nghiên cứu tại những thời 
điểm đó việc thu mẫu chỉ thực hiện có một 
lần. Cuối cùng, ở Hậu Giang cá lau kính phân 
bố ở tất cả các loại hình thủy vực, cao nhất ở 
kênh (42,86%), kế đến là ở sông (28,57%) và 
ao (28,57%).
3.2. Mức độ phong phú của cá lau kính
3.2.1. Tần suất xuất hiện của cá lau kính
Kết quả thu mẫu cho thấy cá lau kính 
phân bố ở tất cả các loại hình thủy vực được 
khảo sát: sông chính, kênh rạch và ao đầm tự 
nhiên. Số lượng cá lau kính đánh bắt được 
theo tỉ lệ mẻ khai thác nhiều nhất ở loại hình 
ao tự nhiên (65%), thấp nhất là ở kênh (14%), 
còn lại là ở sông chính với 21% tổng số lượng 
cá bắt được. Điều này cũng cho thấy rằng, sự 
phong phú của cá lau kính thể hiện ở cả hai 
loại hình nước chảy (sông, kênh) và nước tỉnh 
(ao). (Hình 4)
(%
) S
ố l
ượ
ng
 cá
 la
u k
ín
h 
bắ
t đ
ượ
c t
he
o đ
ịa 
bà
n
Hình 4: Tỉ lệ (%) số lượng cá lau kính bắt được 
ở các loại hình thủy vực
Địa bàn An Giang có phần trăm số lượng 
mẻ khai thác của cá lau kính xuất hiện nhiều 
nhất ở sông (68,42% tổng số lượng), thấp nhất 
là ở kênh (5,26%). Ở Cần Thơ, cá lau kính nhiều 
nhất ở ao (88%). Tương tự, ở Đồng Tháp cá lau 
kính nhiều nhất ở sông (60%). Ở Hậu Giang 
cá lau kính phân bố ở tất cả các loại hình thủy 
vực, cao nhất ở ao (71,79%) và thấp nhất ở sông 
(7,69%)(Hình 5).
20 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
(%
) S
ố l
ượ
ng
 cá
 la
u k
ín
h 
bắ
t đ
ượ
c t
he
o đ
ịa 
bà
n
Hình 5: Tỉ lệ (%) số lượng cá lau kính bắt được theo địa bàn
3.2.2. Mật độ của cá lau kính ở các loại 
hình thủy vực
Kết quả thu mẫu cho thấy mức độ phong 
phú của cá lau kính được thể hiện qua sản 
lượng khai thác được (CPUE
w
: gram/100m2), 
cũng như số lượng cá thể đánh bắt được 
(CPUEn: cá thể/100m
2) trên một đơn vị diện 
tích của thủy vực được thể hiện ở Bảng 2. 
Bảng 2: Mức độ phong phú của cá lau kính
Loại 
hình
CPUEw (g/100m
2) Độ lệch chuẩn CPUE
n
 (cá thể/100m2) Độ lệch chuẩn
Ao 178,34 ± 22,95 12,92 ± 1,46
Kênh 5,86 ± 0,45 0,08 ± 0,01
Sông 4,62 ± 0,27 0,12 ± 0,02
Mức độ phong phú của cá lau kính 
được thể hiện qua sản lượng khai thác được 
của tất cả các mẻ lưới khai thác cho thấy 
mức độ phong phú cao nhất ở thủy vực 
ao (CPUE
w 
= 178,34±0,23g/100m2), kế 
đến là kênh và thấp nhất là sông lần lượt là 
CPUE
w 
= 5,86±0,45g/100m2 và CPUE
w 
= 
4,62±0,27g/100m2 (Hình 6).
Qua kết quả phân tích mẫu, mức độ phong 
phú của cá lau kính được thể hiện qua số lượng 
cá thể đánh bắt được cho thấy mức độ phong 
phú số lượng cá thể cao nhất ở thủy vực ao 
(CPUEn= 13±2 cá thể/100m
2), kế đến là sông và 
thấp nhất là kênh lần lượt là CPUEn = 0,12±0,02 
cá thể /100m2 và CPUEn = 0,08±0,01 cá thể 
/100m2 (Hình 7).
21TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
CP
UE
w(
g/
10
0m
2 ) 
CP
UE
n(
ct/
10
0m
2 ) 
Hình 6: Mức độ phong phú sản lượng CPUE
w
(gram/100m2) của cá lau kính ở các thủy vực 
khảo sát (các cột thể hiện giá trị trung bình của 
CPUE
w
 và độ lệch chuẩn)
CP
UE
w(
g/
10
0m
2 ) 
CP
UE
n(
ct/
10
0m
2 ) 
Hình 7: Mức độ phong phú số lượng CPUEn 
(cá thể/100m2) của cá lau kính ở các thủy vực 
khảo sát (các cột thể hiện giá trị trung bình của 
CPUEn và độ lệch chuẩn)
Ngoài ra, kết quả thu mẫu cũng cho thấy số 
lượng cá thể cá lau kính nhỏ thu được rất nhiều 
trong ao, khối lượng cá thể cá lau kính nhỏ dao 
động từ 21,2 – 69,7± 34,29 g/con. Trong khi 
đó, ở 2 thủy vực còn lại chủ yếu là cá lau kính 
trưởng thành, ở sông khối lượng cá thể dao động 
từ 63 – 185± 44,87 g/con, và ở kênh khối lượng 
cá thể dao động từ 43 – 222,6± 64,38 g/con.
3.2.3. Mức độ phong phú của cá lau kính 
so với các loài cá bản địa
Kết quả thu mẫu về mức độ phong phú của 
cá lau kính so với các loài cá bản địa thể hiện 
qua tỉ lệ số cá thể và sản lượng của cá lau kính 
so với các loài cá bản địa. So sánh sản lượng 
của cá lau kính với sản lượng các loài cá bản 
địa cho thấy tỉ lệ này rất thấp chiếm khoảng 
4,64% so với sản lượng các loài cá bản địa là 
95,36% tổng sản lượng. Trong khi đó, tỉ lệ về 
số lượng cá lau kính so với các loài cá bản địa 
chiếm 0,82% trong tổng số cá thể.
Kết quả thu mẫu ở 4 địa bàn cho thấy Hậu 
Giang là địa bàn có tỉ lệ sản lượng trung bình 
của cá lau kính so với cá bản địa chiếm cao 
nhất (8,98% tổng sản lượng), kế đến địa bàn 
Cần Thơ chiếm 5,50%, đứng thứ ba là địa bàn 
An Giang chiếm 3,18% và thấp nhất là địa 
bàn Đồng Tháp chiếm 2,56%. Bên cạnh đó, 
ao tự nhiên có tỉ lệ sản lượng trung bình của 
cá lau kính so với cá bản địa chiếm cao nhất 
(25,38% tổng sản lượng), tiếp theo là sông 
chiếm 3,61% và cuối cùng là kênh chiếm 
3,07% (Hình 8).
Gi
á t
rị
Hình 8: Tỉ lệ (%) sản lượng cá lau kính so với sản lượng cá bản địa
22 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
3.2.4. Ảnh hưởng của cá lau kính đến 
nguồn lợi thủy sản tự nhiên
Qua kết quả điều tra phỏng vấn ngư dân địa 
phương (n=40) ở 4 địa bàn khảo sát cho thấy 
cá lau kính xuất hiện ở ngoài tự nhiên vào năm 
2001 (Hình 9).
Tầ
n s
uấ
t (
%
)
Năm
Hình 9: Tần suất (%) số ghi nhận thời gian bắt đầu xuất hiện cá lau kính ngoài tự nhiên
Theo thông tin từ ngư dân địa phương cho 
rằng khoảng thời gian năm 2005 -2006 đa số 
ngư dân khai thác được loài cá này ở ngoài tự 
nhiên (50% tổng số ngư dân được điều tra). 
Ngoài ra, cá lau kính ban đầu xuất hiện trong 
các ao đầm tự nhiên sau đó lan rộng và xuất hiện 
rộng khắp các sông chính và kênh rạch. 
Theo quan điểm của ngư dân ở 4 địa bàn 
đã khảo sát cho thấy khoảng 11% tổng số cho 
rằng cá lau kính có tính cạnh tranh cao về thức 
ăn và nơi cư trú đến các loài cá khác và sự xuất 
hiện của loài cá này làm giảm đi sự xuất hiện 
của những loài cá khác, đặc biệt là ở những 
đống chà ven sông. Do đó, sự xuất hiện của cá 
lau kính sẽ đe dọa đến sự tồn tại của các loài 
cá khác.
Sự xuất hiện của cá lau kính có một số lợi 
ích tức thời về mặt kinh tế xã hội của nông hộ 
chiếm 75% số lượng nông hộ được phỏng vấn. 
Đây là loài cá được xem là có giá trị kinh tế 
với giá bán tại các chợ địa phương từ 10.000 
đồng đến 20.000 đồng/kg và được người tiêu 
thụ ưa chuộng do thịt ngon, có thể chế biến các 
món ăn như làm chả cá, nướng, luộc và hầm 
sả. Ngoài ra, các phần xương, da nội tạng bỏ đi 
của cá lau kính cũng được người dân sử dụng 
làm thức ăn trong việc nuôi các loài cá bản địa 
(cá lóc, cá trê).
IV. THẢO LUẬN
Nghiên cứu được thực hiện ở 4 tỉnh nội 
đồng (An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu 
Giang) đều cho thấy có sự phân bố của cá lau 
kính trên khu vực nghiên cứu. Trong một nghiên 
cứu mới đây cũng cho thấy cá lau kiếng không 
những phân bố trong vùng nước ngọt mà còn 
phân bố trong các thuỷ vực nước lợ như ở tỉnh 
Trà Vinh (An, 2013).
Qua khảo sát, kết quả cho thấy có sự khác 
biệt giữa các địa bàn về sự xuất hiện của cá lau 
kính trên sông. Cá lau kính xuất hiện ở trên 
sông không đồng đều, mỗi địa bàn khác nhau 
thì sự xuất hiện cũng khác nhau, ở mỗi sông 
khác nhau thì sản lượng cá lau kính trong mẻ 
23TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
lưới cũng khác nhau. Kết quả này cũng phù hợp 
báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông 
thôn tỉnh An Giang (2013), trên địa bàn tỉnh đều 
xuất hiện cá lau kính với mật độ dày ở hầu hết 
các sông, kênh, rạch, ao. Cá lau kính chiếm tỷ lệ 
cao trong sản lượng thu hoạch của ngư dân qua 
các nghề truyền thống như: chất chà, cào, chài, 
kéo lưới, 
Kết quả của nghiên cứu này đã khẳng định 
cá lau kính sinh sản trong các thuỷ vực ngoài tự 
nhiên. Qua điều tra ngư dân cũng bắt được cá 
lau kính con. Kết quả nghiên cứu cũng tương tự 
như kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Khánh 
và Thi Thanh Vinh (2005). Điều này cho thấy 
có thể cá lau kính đã hình thành được quần đàn 
ngoài tự nhiên vùng ĐBSCL.
V. KẾT LUẬN
Cá lau kính được ngư dân phát hiện ngoài 
tự nhiên từ năm 2001 và chúng đang phát triển 
mạnh ở ngoài tự nhiên tại các tỉnh An Giang, 
Đồng Tháp, Cần Thơ và Hậu Giang. Phân bố 
của cá lau kính rất rộng ở tất cả các loại hình 
thủy vực, trong đó tỉ lệ (%) phân bố nhiều nhất 
ở ao (36,84%), kế đến là ở kênh (31,58%) và ở 
sông (31,58%).
Tần suất xuất hiện của cá lau kính cao nhất 
ở ao tự nhiên chiếm 65%, thấp nhất là ở kênh 
14%, còn lại là ở sông chính với 21%. Mức 
độ phong phú của cá lau kính cao nhất ở ao tự 
nhiên (CPUEn = 13±2 cá thể /100m
2 và CPUE
w 
= 178,34±22,95 g/100m2). 
Cá lau kính xuất hiện ngoài tự nhiên chiếm 
tỉ lệ sản lượng và số lượng cá thể rất thấp 4,64% 
tổng sản lượng và 0,82% tổng số lượng loài so 
với các lòai cá bản địa tự nhiên và cá lau kính 
được xếp ở mức kém phong phú (mức 3). Mức 
độ ảnh hưởng của cá lau kính được nhận định 
ban đầu có ảnh hưởng về cạnh tranh môi trường 
sống và nơi cư trú của các loài cá khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Hoàng Thị Hiệp và Phạm Văn Hiệp, 2009. Thành phần 
loài lưỡng cư và bò sát ở huyện Hồng Ngự, địa 
bàn Đồng Tháp, Hội thảo quốc gia về lưỡng cư và 
bò sát ở Việt Nam, NXB Đại Học Huế. 52 trang.
Phạm Văn Khánh và Thi Thanh Vinh, 2005. Đánh 
giá ảnh hưởng của loài tỳ bà hay cá Lau kính 
(Hypostomus plecostomus) xâm nhập lên nghề 
nuôi cá truyền thống và đa dạng sinh học tại Châu 
thổ sông Mekong, Việt Nam, Báo cáo kết quả 
khảo nghiệm. 40 trang.
Huỳnh Thị Hoàng Oanh. 2012, Nghiên cứu một số đặc 
điểm sinh học của cá Lau kính (Pterygoplichthys 
disjunctivus), Luận văn tốt nghiệp Cao học, 79 
trang.
Tài liệu tiếng Anh
Vu Vi An, 2014. Fish abundance and diversity 
monitoring.For the MRC Fisheries Programme. 
37 pages.
Vu Vi An, Doan Van Tien, Ngor Peng Bun, Nguyen Hai 
Son and So Nam, 2013. Exotic species in southern 
of Viet Nam. Catch and Culture, Volume 19, No.1. 
ISSN 0859-290X. 13 pages
Beverton, R.J.H., and Holt, S.J., 1964. Manual of 
methods for fish stock assessment, Part 2, Tables 
of yield function, FAO Fisheries Technical Paper, 
38:67p.
Nico, L., 1999. Pterygoplichthys disjunctivus, (Weber 
1991), Nonindigenous aquatic species fact sheet 
766,” United States Geological Survey.25 pages.
IUCN, 2004. A global species assessment, 2004 IUCN 
Red list of threatened species.40 pages.
Từ internet
A Key to the Genera of Loricariidae, http://
www,auburn,edu/academic/science_math/cosam/
collections/fish/lor_key/key,html.
Fishbase, 2012. Fishbase (
search,php), Cập nhật ngày 04/06/2012.
GISD, 2012.Global invasive database (http://
www,issg,org/database/welcome/), Cập nhật ngày 
12/06/2012.
newsdetails/1247ECEFDDCC/Xuat_hien_nhieu_
ca_lau_kieng_cuoi_mua_lu,aspx (18/12/2013).
Key to the Species of Pterygoplichthys by J,W, 
Armbruster and L,M, Page (partially modified 
from Weber, 1992), 
academic/science_math/res_area/loricariid/fish_
key/pterygo/pterygo,html.
24 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
DISTRIBUTION AND ABUNDANCE OF SUCKER FISH (Pterygoplichthys
 disjunctivus) IN INLAND WATER BODIES OF THE MEKONG DELTA
Nguyen Nguyen Du1*
ABSTRACT
Sucker fish (Pterygoplichthys disjunctivus) is considered as one of invasive species and being 
widely found in various inland water bodies in the Mekong Delta. The study on distribution and 
abundance of this exotic species was carried out from September 2012 to June 2013. Fish sampling 
were taken by trawl net and seine net in various types of habitats such as: rivers, canals and other 
natural swamps in An Giang, Dong Thap, Can Tho and Hau Giang provinces. According to local 
fishers, sucker fish has been commonly recorded in natural habitats since 2001 in the Mekong 
Delta and the fish population is seriously increasing in wild water bodies for the time being. The 
occurrence frequency of sucker fish catch is observed to be highest in natural swamps, then river 
mainstreams and canals. In connection with abundance, the fish catch accounts for 0.82% in fish 
number and 4.64% in total yield, whereas it has the highest production in natural swamps (CPUE= 
13+2 individual/100m2 and 178.34+22.95 g/100m2). The study has shown that the sucker fish is 
widely distributed in various habitats of the Mekong Delta now. Although it is being recorded to 
be rather low in abundance but this invasive species needs to be further researched and controlled.
Keywords: sucker mouth fish, Pterygoplichthys disjunctivus, distribution, abundance, Mekong 
Delta.
Người phản biện: TS. Nguyễn Minh Niên
Ngày nhận bài: 18/11/2015
Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015
Ngày duyệt đăng: 25/12/2015
1. Department of Fisheries ecology and Aquatic resources, Research Institute for Aquaculture No.2 
* Email: didzu72@yahoo.com

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_phan_bo_va_muc_do_phong_phu_cua_ca_lau_kinh_pter.pdf