Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

TÓM TẮT

Nghiên cứu được thực hiện ở vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

nhằm xác định thành phần loài và mức độ đa dạng thành phần loài cá bống ở các thủy vực khác nhau

làm cơ sở cho hoạt động quản lý và bảo tồn. Mẫu cá được thu bằng vợt ở ba hệ sinh thái chính là

Rừng, Bãi bồi và Kênh, sau đó được định danh và ghi nhận số lượng mẫu. Đường cong lũy tuyến,

hệ số Simpson, Jaccard, và Bray-Curtis được sử dụng để phân tích, so sánh mức độ đa dạng sinh

học giữa các thủy vực. Tổng số mẫu thu được là 581 mẫu thuộc 23 loài, 16 giống. Đường cong

lũy tuyến cho thấy nghiên cứu đã thu đại diện các loài cá bống trong vùng nghiên cứu. Về cơ cấu

thành phần loài, giống Butis chiếm tỉ lệ cao nhất với 13,64%, kế đến là ba giống Acentrogobius,

Periophthalmodon và Periophthalmus cùng chiếm 9,09%. Hệ số đa dạng Simpson không có sự khác

biệt giữa ba hệ sinh thái, dao động từ 3,34 đến 3,37. Tuy nhiên, mức độ giống nhau giữa các hệ sinh

thái là rất thấp (Rừng-Bãi bồi là 0,5; Rừng-Kênh là 0,38; Bãi bồi-Kênh là 0,29). Phân tích cụm cho

thấy hệ sinh thái Rừng và Bãi bồi được nhóm thành một nhóm với độ khác biệt là 43%. Trong khi

đó, Kênh được tách biệt với 2 hệ sinh thái còn lại với hệ số khác biệt là 90,7%. Có 7 loài cá thòi lòi

thu được trong nghiên cứu, trong đó hệ sinh thái Kênh có số lượng loài ít (4 loài) và mức độ phong

phú cũng rất thấp (26 cá thể) so với hai hệ sinh thái còn lại. Ba loài cá thòi lòi tìm được ở hệ sinh

thái Kênh là loài thích nghi cao. Từ đó cho thấy, hệ sinh thái Kênh bị suy thoái so với 2 hệ sinh thái

khác. Nhóm cá thòi lòi đang đối mặt với những nguy cơ lớn từ việc thu hẹp diện tích rừng đến tăng

nhu cầu thực phẩm. Do đó, cần có biện pháp bảo vệ rừng và có những nghiên cứu sâu hơn về sinh

sản của nhóm loài này phục vụ cho mục đích sản xuất và bảo tồn.

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 1

Trang 1

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 2

Trang 2

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 3

Trang 3

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 4

Trang 4

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 5

Trang 5

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 6

Trang 6

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 7

Trang 7

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 8

Trang 8

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 9

Trang 9

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 19620
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng

Đánh giá sự đa dạng sinh học của họ cá bống ở các thủy vực khác nhau trong vùng rừng ngập mặn ven biển Mỏ Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng
 sâu hơn ở phần sau.
3.3.2. Mức độ giống/khác nhau về thành 
phần loài cá bống giữa các thủy vực (hệ số 
Jaccard)
84 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Chỉ số này là tỷ số giữa số loài giống nhau 
giữa hai thủy vực và tổng số loài giữa hai thủy 
vực. Kết quả phân tích hệ số Jaccard cho thấy 
mức độ giống nhau về thành phần loài giữa các 
thủy vực cho thấy có sự khác biệt lớn về thành 
phần loài. 
Bảng 4: Ma trận Jaccard coefficient cho mỗi cặp hệ sinh thái.
Ma trận Jaccard coefficient Rừng Bãi Bồi Kênh rạch
Rừng 0,50 0,38
Bãi Bồi 0,29
Kênh rạch 
Chỉ số Jaccard của Rừng so với Bãi bồi và 
Rừng so với Kênh rạch lần lượt là 0,50 và 0,38, 
trong khi chỉ số này của Kênh rạch so với Bãi 
bồi là 0,29. Điều này cho thấy, các thủy vực có 
sự khác biệt rất lớn về thành phần loài (Bảng 4).
3.3.3. Phân tích cụm (Bray-Curtis) về 
thành phần loài cá bống giữa các thủy vực
Hệ số Bray-Curtis xem xét chi tiết hơn hệ 
số Jaccard khi xem xét cả về số lượng cá thể của 
mỗi loài. Vì vậy, một số hệ sinh thái có cùng chỉ 
số Simpson và Jaccard, nhưng khi xem xét đến 
số lượng cá thể của mỗi loài thì lại rất khác biệt.
Hình 5: Sơ đồ so sánh các cụm hệ sinh thái.
Kết quả phân tích cho thấy, hệ sinh thái 
Rừng và Bãi bồi có mức độ giống nhau là 57% 
và được nhóm lại thành một nhóm. Nhóm này 
có mức độ giống nhau so với hệ sinh thái còn lại 
(Kênh) là 9,3% (Hình 5).Từ kết quả có thể thấy 
hệ sinh thái Kênh rất khác biệt so với hai hệ sinh 
thái còn lại. Điều này tốt hay xấu còn tùy thuộc 
vào thành phần loài khác biệt là những loài chỉ 
thị cho sự khỏe mạnh của hệ sinh thái hay là 
những loài chỉ thị cho sự suy thoái của hệ sinh 
thái để từ đó đưa ra các biện pháp bảo tồn hay 
giảm thiểu tác động suy thoái hệ sinh thái.
3.3.4. Đa dạng thành phần loài cá thòi lòi 
và tiềm năng trong sử dụng như chỉ dấu cho 
sức khỏe môi trường
 Cá thòi lòi (họ phụ Oxudercinae của họ 
Gobiidae) là những loài có một phần vòng đời 
sống trên cạn và thường được dùng như sinh 
vật chỉ thị trong các đánh giá về sinh học và 
độc chất trong môi trường (Polgar et al., 2010). 
Chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ với hệ sinh 
thái rừng ngập mặn và bãi bùn. RNM là hệ sinh 
thái ưa thích của những loài này. Nếu rừng ngập 
mặn bị phá hủy, nơi sinh sống, bãi đẻ và nguồn 
thức ăn của chúng bị ảnh hưởng và quần đàn sẽ 
bị suy giảm nghiêm trọng (Kruitwagen et al., 
2007).
Một nghiên cứu được thực hiện ở rừng ngập 
mặn ở Malaysia bởi Polgar (2008) đã chỉ ra rằng 
với sự tác động của con người HST RNM đang 
bị suy thoái và thu hẹp nghiêm trọng. Mức độ 
suy thoái rừng ngập mặn càng cao thì số lượng 
loài cá thòi lòi càng ít. Nghiên cứu ở rừng ngập 
mặn Sóc Trăng cũng cho kết quả tương tự. Hệ 
sinh thái Rừng và Bãi bồi có số lượng loài cá 
85TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
thòi lòi cùng là 5 loài, cao hơn hệ sinh thái Kênh 
với 4 loài (Bảng 5). Xét về mức độ phong phú, 
hệ sinh thái Rừng và Bãi bồi có số lượng mẫu 
lần lượt là 108 và 122, cao hơn nhiều so với hệ 
sinh thái Kênh với chỉ 26 cá thể. Điều này cho 
thấy rằng hệ sinh thái Rừng và Bãi bồi còn giữ 
được độ đa dạng thành phần loài cá thòi lòi so 
với hệ sinh thái Kênh bị tác động rất nhiều bởi 
hoạt động nuôi tôm. Tuy nhiên, để có kết luận 
rõ và cụ thể hơn cần có những nghiên cứu cụ thể 
hơn tập trung vào cá thòi lòi ở các thủy vực này.
Bảng 5: Thành phần các loài cá thòi lòi hiện diện tại mỗi hệ sinh thái.
STT Loài Rừng Bãi bồi Kênh
1 Periophthalmodon schlosseri x x x
2 Boleophthalmus boddarti x x x
3 Periophthalmus chrysospilos x x
4 Scartelaos histophorus x x
5 Periophthalmus gracilis x x
6 Oxuderces dentatus x
7 Periophthalmodon septemradiatus x
Chú thích: x: sự có mặt của cá thòi lòi tại hệ sinh thái nghiên cứu.
Nghiên cứu của Polgar (2008) cũng chỉ ra 
rằng, cá thòi lòi là loài chọn lọc hệ sinh thái 
để sống, với P. spilotus và P. novemradiatus 
sống trên cạn nhiều hơn so với các loài khác. 
Tuy nhiên, càng lên cạn, sẽ dễ bị tác động bởi 
hoạt động của con người. Do đó, mật độ và sự 
xuất hiện của 2 loài này có thể sử dụng làm chỉ 
dấu cho tác động của con người lên hệ sinh thái 
rừng ngập mặn. Trong nghiên cứu ở rừng ngập 
mặn Sóc Trăng cho thấy có 4 loài sống thiên về 
môi trường nước là Boleophthalmus boddarti, 
Periophthalmus chrysospilos, Scartelaos 
histophorus và Oxuderces dentatus. Có 3 loài 
thích nghi cao có khả năng sống cả ở môi 
trường nước và trên cạn là Periophthalmodon 
schlosseri, Periophthalmus gracilisvà 
Periophthalmodon septemradiatus và chúng 
đều hiện diện trong hệ sinh thái Kênh, trong khi 
đó Periophthalmus gracilis không tìm thấy ở 
Bãi bồi và Periophthalmodon septemradiatus 
chỉ tìm thấy ở Kênh (Bảng 5). Từ đó có thể nói 
lên rằng, môi trường Kênh bị tác động nhiều bởi 
con người do đó chỉ những loài có tính thích 
nghi cao tồn tại.
Loài Periophthalmodon septemradiatus 
sống thiên về nước ngọt và được xem là loài có 
nguy cơ tuyệt chủng ở Malaysia (Polgar, 2008) 
nhưng trong nghiên cứu này chúng chỉ tìm thầy ở 
hệ sinh thái Kênh. Xét trên hệ sinh thái rừng ngập 
mặn, loài này cần được chú ý và có những nghiên 
cứu sâu hơn mặc dù ở ĐBSCL chúng rất phong 
phú và phân bố rộng đến 100km từ cửa sông.
3.3.5. Các nguy cơ tuyệt chủng của cá thòi lòi
Cá thòi lòi có phạm vi phân bố rất hẹp chủ 
yếu ở vùng triều trong rừng ngập mặn do đó 
chúng rất dễ bị tác động nếu môi trường sống 
bị thu hẹp. Ở nhiều nơi như Trung Quốc, Nhật, 
Đài Loan và Hàn Quốc, đô thị hóa làm mất đi 
hệ sinh thái rừng ngập mặn dẫn đến nguy cơ 
tuyệt chủng của những loài này (Ansari và ctv., 
2014). ĐBSCL là nơi có thành phần loài và mức 
độ phong phú của cá thòi lòi tương đối cao. Tuy 
86 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
nhiên, những năm trở lại đây, hiện tượng đô thị 
hóa và phá rừng làm ao nuôi thủy sản đã làm 
suy giảm diện tích rừng đáng kể. Do đó, những 
nghiên cứu cụ thể về cá thòi lòi ở ĐBSCL cần 
được quan tâm để bảo tồn nhóm loài này trước 
khi bị tuyệt chủng.
Cá thòi lòi là nguồn cung cấp dinh dưỡng 
quan trọng cho cộng đồng dân cư ven biển. Ở 
Nigeria, cá thòi lòi được sử dụng rộng rãi do giá 
thành rẻ và có nguồn cung quanh năm (Edun và 
ctv., 2010). Ở Nhật, Trung Quốc, và Đài Loan, 
chúng được nuôi thâm canh và khai thác quá 
mức dẫn đến suy giảm nghiêm trọng quần đàn 
trong tự nhiên. Lấy ví dụ như ở Vịnh Isahaya 
(Nhật) khai thác quá mức làm giảm 90% quần 
đàn cá ở đây (Takegaki và ctv., 2005). Ở một số 
nơi khác như Bangladesh và Thái Lan, chúng 
cũng được sử dụng làm thực phẩm rộng rãi 
và bắt đầu nuôi (Polgar và ctv., 2011). Do đó, 
nguy cơ lớn cho nhóm cá thòi lòi là nhu cầu 
thực phẩm tăng dẫn đến việc khai thác và nuôi 
rộng rãi trong khi các đặc điểm sinh sản và sinh 
học chưa được nghiên cứu hoàn chỉnh. Điều này 
dẫn tới phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn giống 
tự nhiên và nguy cơ tuyệt chủng là hiện hữu. Ở 
ĐBSCL, chưa có nghiên cứu về nuôi và sử dụng 
cá thòi lòi như thực phẩm, nhưng cá thòi lòi bắt 
đầu được quan tâm khai thác.
Như đã thảo luận ở trên, nhóm cá thòi lòi ở 
ĐBSCL hiện đang đối mặt với hai nguy cơ chính 
là hệ sinh thái rừng ngập mặn bị thu hẹp và nhu 
cầu làm thực phẩm tăng. Để bảo vệ và sử dụng 
bền vững những loài này thì bảo vệ môi trường 
sống đặc hữu của chúng (rừng ngập mặn) là 
giải pháp tốt nhất. Bên cạnh đó, các nghiên cứu 
cơ bản về sinh sản và sinh học cần được quan 
tâm để có kiến thức hoàn thiện về vòng đời của 
chúng phục vụ cho hoạt động nuôi, tránh phụ 
thuộc hoàn toàn vào nguồn giống tự nhiên.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
Thành phần các loài cá bống ở RNM Mỏ 
Ó, huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng (được thu 
vào mùa khô từ tháng 2 đến tháng 4) tương 
đối phong phú gồm 23 loài thuộc 2 họ, trong 
đó họ Gobiidae chiếm ưu thế với 19 loài và họ 
Eleotriedae có 4 loài.
Tại khu vực nghiên cứu, chỉ số Simpson 
không có sự khác biết lớn, chỉ số Jaccard và 
Bray-Curtis có sự khác biệt lớn, đa dạng thành 
phần các loài cá bống ở kênh gần vuông nuôi 
tôm thấp hơn so với hai hệ sinh thái còn lại và 
hệ sinh thái kênh đang chịu ảnh hưởng không 
tốt từ hoạt động nuôi tôm.
Cá thòi lòi ở RNM Sóc Trăng nói riêng và ở 
ĐBSCL nói chung đang đứng trước các nguy cơ 
lớn từ thu hẹp diện tích RNM và nhu cầu tăng 
cao cho thị trường thực phẩm.
4.2. Đề xuất
Cần có những nghiên cứu cụ thể hơn về các 
loài cá thòi lòi với vai trò là sinh vật chỉ thị sức 
khỏe RNM, về sinh học, sinh sản của các loài cá 
thòi lòi ở RNM ven biển Mỏ Ó, huyện Trần, tỉnh 
Sóc Trăng và các hệ sinh thái RNM ĐBSCL để 
cung cấp thông tin cho các nghiên cứu và hoạt 
động nuôi/khai thác và bảo tồn loài cá này cũng 
như là bảo tồn hệ sinh thái RNM.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Huỳnh Ngọc Châu và Trương Hoàng 
Minh, 2013. Thành phần loài tôm, cá phân bốở 
khu vực ven biển huyện Cù Lao Dung tỉnh Sóc 
Trăng, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần 
Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công 
nghệ Sinh học: 25 (2013): 239-246.
Phan Văn Mạch, Lê Xuân Tuấn, 2014. Thành 
phần khu hệ cá khu dự trữ sinh quyển rừng 
ngập mặn Cần Giờ- TP. Hồ Chí Minh, Hội nghị 
khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên 
sinh vật lần thứ 6, trang 685-688.
Thành Lâm, 2015. Bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập 
mặn ở ĐBSCL, Hội nông dân Việt Nam. 
news/1098/36420/bao-ve-he-sinh-thai-rung-
ngap-man-o-dbscl, truy cập ngày 7/1/2016.
Tống Minh Tám, Nguyễn Thị Như Hân, 2014. 
Xây dựng dữ liệu về các loài cá ở rừng ngập 
mặn Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa 
học ĐHSP TPHCM Số 61, trang 74-8.
Diệp Anh Tuấn, Đinh Minh Quang, Trần Đắc 
87TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Định, 2014. Nghiên cứu thành phần loài cá 
họ Bống trắng (Gobiidae) phân bốở ven biển 
tỉnh Sóc Trăng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: 
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Tập 30, Số 
3 (2014) 68-76.
Lê Xuân Tuấn, Phan Nguyên Hồng, Trương 
Quang Học, 2008. Những vấn đề môi trường 
ven biển và phục hồi rừng ngập mặn ở Việt 
Nam, Kỷ yếu hội thảo Quốc Tế Việt Nam học 
lần thứ ba, 678 - 692.
Tài liệu tiếng Anh
Ansari, A. A., Trivedi, S., Saggu, S., and Rehman, 
H., 2014. Mudskipper: A biological indicator 
for environmental monitoring and assessment 
of coastal waters, Journal of Entomology and 
Zoology Studies 2014; 2 (6): 22-33.
Colwell, R, K., Coddington, J, A., 1994. 
Estimating the extent of terrestrial biodiversity 
through extrapolation. Philos Trans R Soc 
Lond 345:101–118.
Cowardin, L. M., Carter, V., Golet, F. C., LaRoe, 
E. T., 1979. Classification of wetlands and 
deepwater habitats of the United States. 
USFWS. FWS/OBS-79/31, Washington DC.
Edun, O.M., Akinrotimi, O.A., Uka, A., and 
Owhonda, K.N., 2010. Patterns of mudskipper 
consumption in selected fishing communitíe of 
rivers state, Journal of Agriculture and Social 
Research (10) 2:100-108.
Kottelat, M., 2001, Fishes of laos. 46 pp.
Kruitwagen, G., Scheil, V., Pratap, H. B., & 
Bonga, S. W., 2007. Developmental toxicity 
in zebrafish embryos (Danio rerio) exposed 
to textile effluents. Ecology and toxicology of 
mangrove fauna in Tanzania, 85 - 98.
Murdy, E. O., 1989. A taxonomic revision and 
cladistic analysis of the oxudercine gobies 
(Gobiidae: Oxudercinae), Rec Aust Mus Suppl, 
11, 1–93.
Nursall, J. R., 1981. Behaviour and habitat 
affecting the distribution of five species of 
sympatric mudskippers in Queensland,Bull 
Mar Sci, 31(3),730–735.
Polgar G, Sacchetti A, Galli P., Differentiation 
and adaptive radiation of amphibious gobies 
(Gobiidae: Oxudercinae) in semi-terrestrial 
habitats. J. Fish Bio 2010; 77:1645-1664 
(DOI:10.1111/j.10958649.2010.02807.x).
Polgar, G., 2008. Species-area relationship 
and potential role as a biomonitor of 
mangrove communities of Malayan 
mudskippers,Wetlands Ecology and 
Management 2008, 17(2): 157-164
Polgar, G., and Lim, R., 2011. Mudskippers: 
human use, ecotoxicology and biomonitoring 
of mangrove and other soft bottom intertidal 
ecosystems, Chapter of the edited collection: 
Mangrove: Ecology, Biology and Taxonomy. 
Research Gate.
Rainboth, W. J., 1996. Fishes of the Cambodian 
Mekong. Food & Agriculture Org.
Takegaki T, Wada T, Kanemori Y, Natsukari Y., 
2005. Distribution and population density of 
Boleophthalmus pectinirostris in estuaries 
in Ariake and Yatsushiro Sound, western 
Kyushu, Japan. Jpn J Ichthyol 52:9–16 (In 
Japanese with English abstract).
Tran, D. D., Shibukawa, K., Nguyen, P. T., Ha, 
P. H., Tran, X. L., Mai, V. H., and Utsugi, K., 
2013. Fishes of Mekong Delta, Vietnam, Can 
Tho University Publishing House, Can Tho, 
174 pp.
88 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
DIVERSITY OF GOBIIDAE AND ELEOTRIDAE FAMILIES AT 
DIFFERENT HABITATS IN MO O’S MANGROVE, TRAN DE 
DISTRICT, SOC TRANG PROVINCE
Trang Lam Ngan Ha1, Tran Xuan Loi1*
ABSTRACT
Study was implemented in mangrove forest in Mo O, Tran De District, Soc Trang Province to de-
termine fish composition and abundance of Gobiidae and Eleotridae families in difference habitats 
which can be used for fisheries management and conservation. Samples were collected by scoopnet 
in three main habitats (mangroves, mudflast, and creeks), then, identified and counted for later 
analysis. Accumulation curve, Simpson index, Jaccard coefficence, Bray-Curtis were employed to 
examine diversity among habitats. There were 581 specimens found belonging to 23 species, 16 
genera and 2 families. Accumulation curve shows collected samples represened species status in 
researched area. Simpson index was significant different among habitats while similarity among 
habitats were very low with 0.5 for Mangrove and Mudflat, 0.38 for Mangrove and Creek and 
0.29 for Mudflat and Creek. Bray-Curtis analysis divided into two groups including Creek and 
Mangrove-Mudflat (with dis-similarity being 90.7%). There were seven mudskippers found with 
Creek far surpassed in number of species and abundance by the others. Besides, three mudskip-
pers in the Creek habitat are generalist species which indicates such habitat has been impacted by 
anthropogenic activities. Mudskippers have being faced number of threates coming from shrunk 
mangrove area and increasing demand in the market. Mangrove protection and further studies on 
reproductive aspects of mudskippers should be taken into conserderation for conservation and fish-
eries management.
Keywords: fish composition, Gobiidae, mangrove, Soc Trang Province.
Người phản biện: ThS. Nguyễn Nguyễn Du
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
1 College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University.
* Email:txloi@ctu.edu.vn

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_su_da_dang_sinh_hoc_cua_ho_ca_bong_o_cac_thuy_vuc_k.pdf