Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai đoạn 2017-2019
TÓM TẮT
Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai đoạn 2017 -
2019 được thực hiện tại 8 huyện (An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Thoại Sơn, Phong Điền, Vũng Liêm,
Tp. Trà Vinh và Tiểu Cần) thuộc 4 tỉnh thành (An Giang, Cần Thơ, Trà Vinh và Vĩnh Long) với 5
vùng sinh cảnh chính (ruộng ngập lụt, kênh rạch, sông nhánh, sông chính và ven biển). Số liệu thu
thập từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2019 thông qua nhật ký khai thác của 21 hộ dân, sử dụng 2 loại
ngư cụ khai thác chính (lưới rê và lưới rê 3 màng). Kết quả khảo sát cho thấy sản lượng khai thác
và kích cỡ của các loài cá thuộc họ Pangasiidae có xu hướng giảm theo thời gian. Trong 3 năm khai
thác được 13 loài cá thuộc họ Pangasiidae, cụ thể vào năm 2017 với 10 loài đạt 30.287 cá thể, năm
2018 với 11 loài đạt 25.183 cá thể và năm 2019 với 12 loài nhưng chỉ còn 3.861 cá thể. Hầu hết
các loài cá khai thác được tập trung chủ yếu ở dòng chính của sông với kích cỡ lớn, trong khi đó ở
ruộng ngập lụt sản lượng khai thác ít hơn với kích cỡ nhỏ hơn. Trong đó, loài Pangasius krempfi,
Pangasius conchophilus và Pangasius elongates tập trung chủ yếu tại vùng sinh cảnh ven biển; loài
Pangasianodon hypophthalmus và Pangasius larnaudiei tập trung tại vùng sinh cảnh ruộng ngập
lụt. Việc xây dựng các công trình thủy điện trên sông chính ở thượng nguồn tác động đến lưu lượng
nước và mức nước, làm ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lợi cá di cư trên sông chính ở hạ lưu, đặc biệt
là các loài thuộc họ Pangasiidae.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiện trạng các loài cá thuộc họ Pangasiidae khu vực hạ lưu sông Mekong giai đoạn 2017-2019
thác nhiều nhất vào tháng 2 – 3 (Võ Thành Toàn, 2018). Trong khảo sát này, năm 2018 vùng sinh cảnh kênh rạch (An Giang) không xuất hiện Pangasius krempfi, tại vùng sinh cảnh ruộng ngập lụt (An Giang) chỉ khai thác được vào tháng 1 (1 cá thể) và tháng 2 (2 cá thể ) còn tại vùng sinh cảnh sông chính tỉnh An Giang chỉ có vào tháng 1 (1 cá thể) và tháng 4 (1 cá thể). Baird (2004) trình bày một phân tích trong bốn năm (1994, 1995, 1998 và 1999) ở mũi phía nam của đảo Nok Kasoum, huyện Khong, tỉnh Champasak, miền nam CHDCND Lào. Mặc dù hơn 100 loài khác bị đánh bắt, Pangasius conchophilus (cá Hú) là loài chiếm ưu thế. Bài viết cho rằng Pangasius krempfi (cá Bông lau) là một trong các loài vô tính di cư từ ĐBSCL ở Việt Nam đến Thác Khone và xa hơn. Trong khảo sát này từ năm 2017 đến năm 2019 chiếm ưu thế cao nhất trong họ Pangasiidae là Pangasius krempfi tiếp đến Pangasius conchophilus và Pangasius elongatus (cá Dứa nước ngọt). Loài Pangasius krempfi (cá Bông lau) chiếm số lượng lớn tại vùng sinh cảnh ven biển do giai đoạn sống đầu tiên chúng sống tại khu vực cửa sông. Năm 2019 số lượng giảm đáng kể một phần do hộ 16 khai thác quá ít ngày vào tháng 8 (2/30 ngày) và 9 (6/31 ngày) so với 2 năm trước đó, ảnh hưởng của cơn bão số 4 và hạn hán. 78 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Pangasius krempfi (cá Bông lau) là một trong các loài vô tính di cư từ ĐBSCL ở Việt Nam đến Thác Khone và xa hơn. Trong khảo sát này từ năm 2017 đến năm 2019 chiếm ưu thế cao nhất trong họ Pangasiidae là Pangasius krempfi tiếp đến Pangasius conchophilus và Pangasius elongatus (cá Dứa nước ngọt). Loài Pangasius krempfi (cá Bông lau) chiếm số lượng lớn tại vùng sinh cảnh ven biển do giai đoạn sống đầu tiên chúng sống tại khu vực cửa sông. Năm 2019 số lượng giảm đáng kể một phần do hộ 16 khai thác quá ít ngày vào tháng 8 (2/30 ngày) và 9 (6/31 ngày) so với 2 năm trước đó, ảnh hưởng của cơn bão số 4 và hạn hán. 2.15 1.43 1.11 1.86 1.38 1.05 4.48 4.40 3.59 3.31 3.20 2.50 0 1 2 3 4 5 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Mức nước i Tân Châ và Châ Đốc với ản lượng cá Panga ii a khai hác ở Đ SCL Mức nước Tân Châu (m) Mức nước Châu Đốc (m) Log (Số con) Log (kg) Hình 8: Mức nước (mét) Tân Châu, Châu Đốc với sản lượng khai thác Pangasiidae ở ĐBSCL(#). Chế độ lũ của sông Mekong liên quan rất mật thiết với sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên của vùng ĐBSCL. Khi mực nước lũ hàng năm tăng thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm vùng ĐBSCL tăng theo, ngược lại khi mực nước lũ hàng năm giảm thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm vùng ĐBSCL giảm theo (Hình 8). Các công trình thủy điện trên dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong đã đi vào hoạt động trong 3 năm trở lại đây đã tác động tiêu cực theo chiều hướng suy giảm nguồn lợi cá, đặc biệt họ Pangasiidae, do mất đi bãi đẻ của các loài cá và mất đi sự di cư của chúng trên dòng chính trong thời gian qua. Baird (2004) cũng cho rằng những thay đổi về điều kiện thủy văn ở sông Mekong và các nhánh lớn của nó gây ra bởi việc xây dựng các đập thủy điện lớn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng di cư cá và nghề cá liên quan. Theo Lê Anh Tuấn & ctv., (2014) ngày càng có nhiều dự án đập thủy điện đã và đang được xây dựng trên dòng chính thượng nguồn sông Mekong. Các đập nước sẽ ngăn cản sự di cư của nhiều loài cá, đặc biệt là nhóm cá da trơn, mà báo cáo Đánh giá Môi trường Chiến lược về thủy điện dòng Hình 8: Mức nước (mét) Tân Châu, Châu Đốc với sản lượng khai thác Pangasiidae ở ĐBSCL(#). Chế độ lũ của sông Mekong liên quan rất mật thiết với sản lượng khai thác thủy sản tự nhiên của vùng ĐBSCL. Khi mực nước lũ hàng năm tăng thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm vùng ĐBSCL tăng the , ngược lại khi ực nước lũ hàng năm giảm thì sản lượng cá tự nhiên hàng năm vùng ĐBSCL giảm theo (Hình 8). Các công trình thủy điện trên dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong đã đi vào hoạt động trong 3 năm trở lại đây đã tác động tiêu cực theo chiều hướng suy giảm nguồn lợi cá, đặc biệt họ Pangasiidae, do mất đi bãi đẻ của các loài cá và mất đi sự di cư của chú g trên dò chính trong thời gian qua. Baird (2004) cũng cho rằng những thay đổi về điều kiện thủy văn ở sông Mekong và các nhánh lớn của nó gây ra bởi việc xây dựng các đập thủy điện lớn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng di cư cá và nghề cá liên quan. Theo Lê Anh Tuấn & ctv., (2014) ngày càng có nhiều dự án đập thủy điện đã và đang được xây dựng trên dòng chính thượng nguồn sông Mekong. Các đập nước sẽ ngăn cản sự di cư của nhiều loài cá, đặc biệt là nhóm cá da trơn, mà báo cáo Đánh giá Môi trường Chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mekong (SEA, 2010) của nhóm công tác của Trung tâm Môi trường Quốc tế (ICEM) cho rằng tổn thất cá so với năm 2000 là khoảng 210.000 đến 540.000 tấn mỗi năm. Báo cáo này cho rằng, nếu xây đập thì đập như bức tường thành mà cá không t ể vượt qua để di cư theo mùa s nh sản. Ngay cả khi xây cầu thang cho cá đi qua thì cũng không khả thi đối với dòng chính Mekong (Hiện cũng chỉ có 3 dự án có thiết kế cầu thang cá). Nếu xây đập thì 35% tổng lượng cá di cư sẽ bị đập cản trở, với mức độ rủi ro là 0,7 - 1,6 triệu tấn/năm. Đến năm 2030, tổng tổn thất trực tiếp về cá là 550.000 - 880.000 tấn/năm (chưa tính tổn thất cá đồng và cá biển) hay 26–42% so với đường cơ bản năm 2000. Chỉ tính nếu chỉ xây dựng đập Xayaburi có chiều cao 32 m, vượt quá độ cao cầu thang cho cá di cư thì không những chỉ cản đường di cư của cá mà còn làm đảo lộn dòng chảy, phá vỡ hệ sinh thái không thể cứu vãn nổi dẫn đến tuyệt chủng 41 loài cá cũng như các loài thủy sinh khác sẽ gây ra thảm họa cả về an ninh lương thực lẫn dinh dưỡng. Ngoài ra, các đập như là những rào cản trên sông cũng sẽ ảnh hưởng tới sự trôi dạt xuống hạ lưu của trứng và ấu trùng cá cũng như các loài động vật thuỷ sinh khác. Sự ngăn cản này tác động lớn tới việc sụt giảm sản lượng do ảnh 79TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II hưởng tiêu cực tới năng suất sinh học thứ cấp của các nhóm cá không di cư. Việc thay đổi lớn và nhanh về mực nước và lưu tốc dòng chảy ở các vực sâu cũng làm mất đi nơi trú ngụ của các loài cá vào mùa khô. Thêm vào đó, chế độ thuỷ văn thay đổi sẽ cản trở sự di cư của cá trưởng thành, gây nhiễu tín hiệu di cư và cản trở chu kỳ di cư của cá. Nếu hạ mực nước đột ngột trong điều kiện năm hạn (cả trong mùa khô và mùa mưa), có thể gây tác động tức thì tới mức nước hạ du Kra-chê và sẽ làm trễ thời điểm bắt đầu mùa lũ, một tín hiệu di cư quan trọng của một số loài cá (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016). V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 5.1. Kết luận Kết quả quan trắc từ năm 2017 đến 2019 xác định có 13 loài thuộc họ Pangasiidae cụ thể vào năm 2017 với 10 loài đạt 30.287 cá thể, năm 2018 với 11 loài đạt 25.183 cá thể và năm 2019 với 12 loài chỉ còn 3.861 cá thể. Loài Pangasius krempfi, Pangasius elongates và Helicophagus leptorhynchus có số lượng cá thể khai thác giảm qua các năm. Ngược lại số lượng cá thể loài Pangasius siamensis, Pangasianodon hypophthalmus, Pangasius macronema, Pangasius pleurotaenia và Pangasius micronemus tăng từ năm 2017 đến năm 2019. Xu hướng sản lượng khai thác và kích cỡ chiều dài họ Pangasiidae giảm theo thời gian. Hầu hết các loài cá khai thác được tập trung chủ yếu ở dòng chính của sông và có kích cỡ lớn, trong khi đó ở ruộng ngập lụt sản lượng khai thác ít hơn và kích cỡ cá nhỏ hơn. Loài Pangasius krempfi, Pangasius conchophilus và Pangasius elongates tập trung chủ yếu tại vùng ven biển, còn loài Pangasianodon hypophthalmus và Pangasius larnaudiei tập trung tại ruộng ngập lụt. Kết quả cho thấy vùng ven biển có CPUEn và CPUEw họ Pangasiidae giảm qua 3 năm. Trong đó loài Pangasius krempfi (cá Bông lau) có CPUEn (ven biển) và CPUEw (ven biển và sông chính) giảm theo thời gian. Ngược lại, tại kênh rạch loài Pangasianodon hypophthalmus (cá Tra sông) có CPUEw tăng qua 3 năm. Hạn chế khai thác Helicophagus waandersi (cá Sát chuột) chỉ xuất hiện tháng 1/2019 tại Chợ Mới và Pangasius mekongensis (cá Tra bần) chỉ xuất hiện tháng 11/2017 tại Vũng Liêm. Việc xây dựng các công trình thủy điện trên sông chính ở thượng nguồn tác động đến lưu lượng nước và mức nước, làm ảnh hưởng rất lớn đến nguồn lợi cá di cư trên sông chính ở hạ lưu, đặc biệt là các loài thuộc họ Pangasiidae. 5.2. Đề xuất Nên cập nhật thêm số liệu mức nước kết hợp đo lưu tốc dòng chảy của các điểm quan trắc góp phần đánh giá, nhận xét biến động các loài thuộc họ Pangasiidae tốt hơn. Hạn chế khai thác các loài có kích cỡ nhỏ, nên sử dụng ngư cụ có kích thước mắc lưới từ 5 trở lên. LỜI CẢM ƠN Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn Ủy Hội sông Mekong (MRC) đã hỗ trợ kinh phí và sự ghi chép cẩn thận của 21 hộ khai thác để góp phần hoàn thành khảo sát này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2016. Nghiên cứu tác động của các công trình thủy điện trên dòng chính sông Mekong. HDR và DHI tư vấn, 113 trang. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Thiện, Dương Văn Ni, Lê Phát Quới và Nguyễn Đức Tú, 2014. Chuyện về nước và con người ở Đồng bằng sông Cửu Long, Gland, Thụy Sĩ: IUCN. 66 trang. Lê Dương Ngọc Quyền và Dương Thúy Yên, 2018. Hiện trạng khai thác cá bông lau (Pangasius krempfi) và cá tra bần (Pangasius mekongensis) ở cửa sông Tiền. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 54(9B): 82-87. Nguyễn Văn Hảo, 2005. Cá nước ngọt Việt Nam (tập II), Nhà Xuất Bản Hà Nội, Hà Nội. Nguyễn Văn Thường, Tô Công Tâm, Nguyễn Văn 80 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Lành, Nguyễn Bạch Loan, 2009. Khảo sát thành phần loài cá trơn họ Pangasiidae ở Đồng bằng sông Cửu Long. Đề tài cấp bộ-Mã số đề tài: B2006-16-14, 80 trang. Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt Đồng bằng sông Cửu Long, Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. Tran, D.D., Shibukawa K., Nguyen, T.P., Ha, P.H., Tran, X.L., Mai, V.H., and Utsugi, K., 2013. Mô tả định loại cá Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Fishes of the Mekong Delta, Vietnam. Can Tho University Publishing House, Can Tho. 174 pages. Võ Thành Toàn, 2018. Đánh giá hiện trạng nguồn lợi cá bông lau giống (Pangasius krempfi) ở vùng cửa sông Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng. Đề tài cấp cơ sở, trường Đại học Cần Thơ. Tài liệu tiếng Anh Baird, I.G., 1998. Preliminary fishery stock assessment results from Ban Hang Khone, Khong District, Champassak Province, Southern Lao PDR. Technical Report. Environmental Protection and Community Development in the Siphandone Wetland, Champassak Province, Lao PDR. Funded by European Union, implemented by CESVI. 12 pp. Ian g. Baird, Mark s. Flaherty and bounpheng Phylavanh, 2004. Mekong river pangasiidae catfish migrations and the khone falls wing trap fishery in southern Laos. Nat. Hist. Bull. Siam Soc. 52(1): 81-109, 2004. ICEM. Strategic Environmental Impact Assessment for Hydropower on the Mekong Mainstream. Final Report, prepared for the Mekong River Commission. Hanoi; 2010. Available at: http:// www.mrcmekong.org/ish/SEA/ SEA-Main- Final-Report.pdf. Vidthayanon, Chavalit, 2008. Field guide to fishes of the Mekong Delta. Mekong River Commision, Vientiane, 288 pp. Poulsen, A.F., Hortle, K.G., Valbo-Jorgensen, J., Chan, S., Chhuon, C.K., Viravong, S., Bouakhamvongsa, K., Suntornratana, U., Yoorong, N., Nguyen T.T., and Tran Q.B, 2004. Distribution and ecology of some important riverine fish species of the Mekong River Basin. MRC Technical Paper No. 10. ISSN: 1683-1489. Rainboth, W.J., 1996. Fishes of the Căm-pu-chian Mekong. FAO, Rome, 265 pp. Roberts, T.R., 1993b. Artisanal fisheries and fish ecology below the great waterfalls of the Mekong River in southern Laos. Natural History Bulletin of the Siam Society 42: 67-77. Roberts, T. R., and Baird, I. G., 1995. Traditional fisheries and fish ecology on the Mekong River at Khone Waterfalls in southern Laos. Natural History Bulletin of the Siam Society 43: 219- 262. Singanouvong, D., Soulignavong, C., Vonghachak, K., Saadsy, B., and Warren, T.J., 1996a. The main dry-season fish migrations of the Mekong mainstream at Hat Village, Muang Khong District, Hee Village, Muang Mouan (Sic) District and Ban Hatsalao Village, Paxse. IDRC Fisheries Ecology Technical Report No. 3. 131 pp. Sverdrup-Jensen, S,. 2002. Fisheries in the Lower Mekong Basin: status and perspectives. MRC Technical Paper No. 6. Mekong River Commission, Phnôm Pênh. 103 pp. 81TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 17 - THÁNG 9/2020 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II ASSESSMENT ON THE CURRENT STATUS OF PANGASIIDAE FAMILY IN THE LOWER MEKONG RIVER FROM 2017 TO 2019 Dinh Trang Diem1*, Nguyen Nguyen Du1, Tran Thuy Vy1, and Huynh Hoang Huy1 ABSTRACT Assessment of the status of the Pangasiidae family in the lower Mekong river from 2017 to 2019 was carried out in 8 districts (An Phu, Phu Tan, Cho Moi, Thoai Son, Phong Dien, Vung Liem, Tra Vinh, and Tieu Can) belongs to 4 provinces (An Giang, Can Tho, Tra Vinh, and Vinh Long) with 5 main habitats (Flooded rice field, Canal, Tributary, Mainstream river, and Coastal areas). The fisheries data were collected from January 2017 to December 2019 through the fishing logbooks of 21 fishermen by using 2 types of fishing gears (gill net and trammel net). The results showed that the size Pangasiidae trend decline over time. Thirteen species of Pangasiidae were recorded from 2017 to 2019, in 2017 with 10 species (30,287 individuals), 2018 with 11 species (25,183 individuals), and 2019 with 12 species (only 3,861 individuals). Almost all of the species are mainly concentrated in the mainstream river with large sizes, while it was contrary to the flooded rice field. Pangasius krempfi, Pangasius conchophilus, and Pangasius elongatus are mainly concentrated in coastal areas, while Pangasianodon hypophthalmus, and Pangasius larnaudiei are concentrated in the flooded rice field. The construction of new hydropower dams on the Mekong main river upstream affects discharge and water level, greatly affecting fish migratory, especially species of the family Pangasiidae. Keywords: lower Mekong, fishing, fish caught size, Pangasiidae, capture production. Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Tú Ngày nhận bài: 16/6/2020 Ngày thông qua phản biện: 17/7/2020 Ngày duyệt đăng: 25/8/2020 Người phản biện: PGS. TS. Trần Đắc Định Ngày nhận bài: 16/6/2020 Ngày thông qua phản biện: 20/7/2020 Ngày duyệt đăng: 25/8/2020 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: *trangdiemdinh@gmail.com
File đính kèm:
- danh_gia_hien_trang_cac_loai_ca_thuoc_ho_pangasiidae_khu_vuc.pdf