Đặc tính dinh dưỡng của cá tráp vây vàng Acanthopagrus latus ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên
Tóm tắt
Cá Tráp vây vàng Acanthopagrus latus (Houttuyn, 1782) là một trong những đối
tượng khai thác của đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên, song rất ít được nghiên cứu. Bài báo này
cung cấp những dẫn liệu đầu tiên về đặc tính dinh dưỡng của loài: Thành phần thức ăn,
Cường độ bắt mồi, Mức độ tích luỹ mỡ, Hệ số béo của cá tráp vây vàng. Cá Tráp vây vàng
là loài ăn tạp. Phổ thức ăn được mở rộng từ nhóm cá kích thước nhỏ đến nhóm cá kích
thước lớn. Cường độ bắt mồi của cá Tráp vây vàng tương đối cao. Mức độ tích luỹ mỡ khá
cao và liên quan đến thời gian dinh dưỡng và sinh sản của cá. Hệ số béo của cá tráp vây
vàng tính theo công thức của Fulton (1902) và Clark (1928) khá lớn, cho thấy sức chứa nội
quan là tương đối cao.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc tính dinh dưỡng của cá tráp vây vàng Acanthopagrus latus ở đầm Ô Loan, tỉnh Phú Yên
g sống thuỷ sinh để định loại đến từng bậc taxon (giống, họ, bộ). Đếm số lượng thức ăn để xác định tần số xuất hiện và mức độ tiêu hoá thức ăn. - Xác định độ no: Dựa vào lượng thức ăn chứa trong dạ dày và ruột của cá theo thang 5 bậc (từ bậc 0 đến bậc 4) của Lebedep, từ đó đánh giá cường độ bắt mồi của cá. - Xác định độ mỡ: theo thang 5 bậc (từ bậc 0 đến bậc 4) của Prozorovxkaia. - Xác định hệ số béo: sử dụng cả hai phương pháp của Fulton (1902) và Clark (1928) để xác định hệ số béo (Q) cá Tráp vây vàng Q = W.100/L3 (Fulton, 1902) và Q = W0.100/L 3 (Clark, 1928) Trong đó, W, W0: Khối lượng toàn thân và khối lượng bỏ nội quan của cá (g). L: chiều dài của cá đo từ mút mõm đến hết tia vây đuôi dài nhất (mm) - Thu và xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm Excel để tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Thành phần thức ăn của cá Tráp vây vàng Khi phân tích thức ăn có trong dạ dày và ruột của cá Tráp vây vàng, đã thống kê được 27 nhóm thức ăn khác nhau (bảng 1), trong đó, thực vật có hoa sống thủy sinh thuộc ngành Ngọc Lan 2 loại, ngành tảo Silic ưu thế nhất, gồm 14 loại, ngành tảo Lục 3 loại, ngành tảo Lam 3 loại, động vật không xương sống thuộc ngành Thân mềm 2 loại, ngành Chân khớp 2 loại và ngành có dây sống 1 loại. Thành phần thức ăn trong từng cá thể cũng khá đa dạng, bao gồm 21 - 24 nhóm loài tảo, thực vật và động vật khác nhau (bảng 1). Như vậy, có thể khẳng định TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3 * 2013 23 rằng, cá tráp vây vàng là loài cá ăn tạp (omnivore), hơn nữa, số lượng loài làm thức ăn trong ống tiêu hóa tuy đa dạng, song khối lượng thức ăn chủ yếu lại thuộc về thực vật lớn (macrophyta), động vật thân mềm và mùn bã hữu cơ. Bảng 1. Thành phần thức ăn của cá Tráp vây vàng theo nhóm chiều dài STT Tên các nhóm thức ăn Nhóm chiều dài cá (mm) 101-200 (I) 201-300 (II) 301-400 (III) I Cyanophyta (Tảo Lam) 1 Melosira + + + 2 Oscillatoria + + 3 Spirulina + + + II Chlorophyta (Tảo Lục) 4 Spirogyra + + 5 Scenedesna + + 6 Desmidium + + III Bacillariophyta (Tảo Silic) 7 Nitzschia + + + 8 Thalassiothrix + + + 9 Cosscinodiscus + 10 Navicula + + 11 Pleurosigma + + 12 Synechocystis + + 13 Chroococcus + + + 14 Campylodiscus + + 15 Cyclotella + + 16 Biddulphia + 17 Chalassinema + + + 18 Skeletonema + + 19 Thalasiasira + + 20 Pleurosima + + IV Magnoliophyta (Thực vật có hoa) 21 Valisneria + + 22 Najas + + V Mollusca (Thân mềm) 23 Corbicula + + 24 Sermyla + + VI Arthropoda (Chân khớp) 25 Copepoda + + + 26 Amphipoda + + 24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN VII Chordata (Có dây sống) 27 Stolephorus + + Tổng 15 21 24 Trong quá trình nghiên cứu, cũng cho thấy, thành phần thức ăn chủ yếu của cá Tráp vây vàng trong đầm ít có những biến động. Tuy nhiên, thành phần thức ăn của cá có kích thước lớn đa dạng hơn so với những nhóm cá có kích thước nhỏ, song những nhóm thức ăn chủ yếu trong ống tiêu hóa của các cá thể như Oscillatoria, Cosscinodiscus, Nitzschia, Thalassiothrix, Chroococcus, Cyclotella, Copepoda thường gặp xuyên ở các nhóm cá có kích thước khác nhau, ngược lại, một số loại thức ăn khác như: Synechocystis, Pleurosima, Stolephorus chỉ có mặt ở dạ dày và ruột của nhóm kích thước này, nhưng lại vắng mặt ở ống tiêu hóa của nhóm có kích thước khác. Sự mở rộng phổ thức ăn theo tuổi được xem là đặc tính thích nghi trong dinh dưỡng nhằm tránh sự cạnh tranh thức ăn trong cùng loài đảm bảo cho quần thể sống ổn định, khi điều kiện môi trường, đặc biệt là thức ăn biến động theo chiều hướng xấu. 3.2. Cường độ bắt mồi của cá Tráp vây vàng - Cường độ bắt mồi theo thời gian Cường độ bắt mồi của cá được xác định bằng chỉ số độ no trong dạ dày và ruột cá theo từng tháng. Kết quả phân tích được trình bày ở bảng 2. Dựa vào số liệu về các bậc độ no để nhận thấy, tất cả các tháng trong năm, tỷ lệ cá có độ no bậc 0 thường nhỏ nhất (6,62%), so với độ no bậc 2 (36,81%), bậc 3 (29,11%) và bậc 4 (10,22%). Điều đó chứng tỏ cá Tráp vây vàng là loài cá có cường độ bắt mồi cao quanh năm. Tuy vậy, trong từng tháng, cường độ bắt mồi của cá không giống nhau. Vào những tháng mùa khô, từ tháng III đến tháng VI cá tích cực dinh dưỡng với tỷ lệ độ no đạt cao nhất (11,88% - 12,95%), trong đó tỷ lệ độ no bậc 3 dao động từ 2,43 - 4,67%; độ no bậc 4 đạt 1,36 - 1,75%, cao hơn so với khoảng thời gian từ tháng VII đến tháng II năm sau. Bảng 2. Độ no của cá Tráp vây vàng theo tháng trong thời gian nghiên cứu Tháng nghiên cứu Bậc độ no 0 1 2 3 4 N % N % n % n % n % n % I 10 0,97 15 1,46 30 2,92 12 1,19 5 0,49 72 7,01 II 7 0,68 23 2,24 24 2,34 17 1,66 9 0,88 80 7,79 III 8 0,79 18 1,75 43 4,19 38 3,70 15 1,46 122 11,88 IV 11 1,07 35 3,40 27 2,63 25 2,43 18 1,75 116 11,30 V 8 0,79 20 1,96 38 3,70 42 4,09 15 1,46 123 11,98 TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3 * 2013 25 VI 2 0,19 20 1,96 49 4,77 48 4,67 14 1,36 133 12,95 VII 4 0,39 10 0,97 29 2,82 28 2,73 7 0,68 78 7,59 VIII 2 0,19 5 0,49 18 1,75 14 1,36 4 0,39 43 4,19 IX 3 0,29 10 0,97 25 2,43 12 1,67 5 0,49 55 5,36 X 3 0,29 10 0,97 35 3,40 23 2,24 6 0,58 77 7,49 XI 5 0,49 6 0,58 37 3,60 23 2,24 5 0,49 76 7,40 XII 5 0,49 5 0,49 23 2,24 17 1,66 2 0,19 52 5,06 Tổng 68 6,62 177 17,24 378 36,81 299 29,11 105 10,22 1.027 100 Từ tháng IX đến tháng tháng II năm sau cường độ bắt mồi giảm; trong đó, số cá có độ no bậc 3, bậc 4 chiếm tỷ lệ thấp, dao động trong khoảng 0,19 - 2,24%. Điều này có thể liên quan đến yếu tố thời tiết, vì lúc này trùng vào các tháng mùa mưa nhiệt độ nước thấp hơn so với các tháng mùa khô (bảng 3). Xu hướng chung là cá bắt mồi vào mùa khô tích cực hơn các tháng mùa mưa. Tổng hợp các bậc độ no của cá Tráp vây vàng theo mùa trong thời gian nghiên cứu được trình bày ở bảng 3. Bảng 3. Bậc độ no cá Tráp vây vàng theo mùa trong thời gian nghiên cứu Mùa mưa (tháng IX đến tháng II) Mùa khô (tháng III đến tháng VIII) Bậc độ no 0 1 2 3 4 0 1 2 3 4 Số lượng cá thể 33 69 174 87 27 35 108 204 212 78 % 2,27 6,72 16,94 8,47 2,63 3,41 10,52 19,86 20,64 7,59 - Cường độ bắt mồi theo sự phát triển tuyến sinh dục Cường độ bắt mồi của cá liên quan với quá trình phát triển của tuyến sinh dục (bảng 4) Bảng 4. Độ no của cá Tráp vây vàng theo sự phát triển của tuyến sinh dục Bậc độ no Giai đoạn CMSD N I II III IV V VI N % n % n % n % n % n % n % 0 0 0,00 15 1,46 28 2,73 12 1,17 3 0,29 10 0,97 68 6,62 1 25 2,43 25 2,43 50 4,47 30 2,92 40 3,89 7 0,68 177 17,24 2 55 5,36 77 7,50 160 15,58 40 3,89 40 3,89 6 0,58 378 36,81 3 65 6,34 79 7,69 116 11,30 37 3,60 0 0,00 2 0,19 299 29,11 4 56 5,45 35 3,41 6 0,58 8 0,79 0 0,00 0 0,00 105 10,22 26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Tổng 201 19,57 231 22,49 360 35,05 127 12,37 83 8,08 25 2,43 1.027 100 Các số liệu từ bảng 4 cho thấy, ở giai đoạn CMSD thấp (giai đoạn I, II, III) cá Tráp vây vàng bắt mồi tích cực hơn so với các giai đoạn CMSD phát triển ở giai đoạn cao, cao nhất ở giai đoạn III, sau giảm và đạt cực tiểu ở giai đoạn sau khi đẻ trứng. Từ những kết quả thu được có thể rút ra nhận xét, ở giai đoạn CMSD thấp, cá Tráp vây vàng bắt mồi tích cực với cường độ cao nhằm tích luỹ năng lượng để chuẩn bị cho quá trình đẻ trứng. Các giai đoạn CMSD cao và trong thời kỳ sinh sản cá vẫn bắt mồi nhưng cường độ giảm đi rõ rệt. - Cường độ bắt mồi của cá Tráp vây vàng theo nhóm tuổi Nghiên cứu cường độ bắt mồi của cá Tráp vây vàng theo từng nhóm tuổi được trình bày ở bảng 5. Qua số liệu ở bảng cho thấy, từ nhóm cá tuổi 0+ đến nhóm cá 2+ cường độ bắt mồi của cá tăng theo độ tuổi và tích cực hơn ở nhóm cá 3+. Ngay từ giai đoạn còn non, cá Tráp vây vàng đã thể hiện là loài bắt mồi khá tích cực, với độ no bậc 3 và 4 chiếm 3,89 % và 2,43% số cá thể tương ứng. Nhóm cá hơn một năm tuổi (1+) và nhóm cá hơn 2 năm tuổi (2+) có cường độ bắt mồi cao nhất (14,9%). Điều này hoàn toàn phù hợp với qui luật là cá phải tích luỹ dinh dưỡng, chuyển hóa năng lượng để tăng trưởng và phát triển. Ở nhóm tuổi cao hơn (3+) cường độ bắt mồi lại giảm. Bảng 5. Độ no của cá Tráp vây vàng theo nhóm tuổi trong thời gian nghiên cứu Bậc độ no Tuổi 0 1 2 3 N % n % n % N % n % 0 0 0,00 12 1,17 26 2,53 30 2,92 68 6,62 1 25 2,43 27 2,63 59 5,74 66 6,43 177 17,24 2 60 5,84 153 14,90 108 10,52 57 5,55 378 36,81 3 40 3,89 127 12,37 83 8,08 49 4,77 299 29,11 4 25 2,43 38 3,70 20 1,95 22 2,14 105 10,22 Tổng 150 14,6 357 34,7 296 28,9 224 21,8 1.027 100 3.3. Độ mỡ của cá Tráp vây vàng Để xác định mức độ tích luỹ mỡ của cá Tráp vây vàng, chúng tôi đã sử dụng thang 5 bậc của Prozovskaia (1952) và kết quả thể hiện qua bảng 6. Cá Tráp vây vàng có độ mỡ từ bậc 0 đến bậc 4. Số lượng cá có độ mỡ bậc 0 chiếm tỉ lệ rất thấp, số lượng cá thể có độ mỡ bậc 2 chiếm tỉ lệ cao nhất. Nhiều cá thể có độ mỡ bậc 3 và bậc 4. Như vậy cá Tráp vây vàng ở vùng đầm Ô Loan có độ mỡ khá cao (bảng 6). TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3 * 2013 27 Khi phân tích độ mỡ của cá qua các tháng, độ mỡ bậc 2 và bậc 3 xuất hiện ở tất cả các tháng trong năm, độ mỡ bậc 1 tập trung chủ yếu từ tháng VII đến tháng X. Độ mỡ bậc 4 xuất hiện từ tháng XII đến tháng V. Độ mỡ bậc 0 chỉ có ở các tháng V, VII, VIII. Như vậy, mức độ tích luỹ mỡ của cá liên quan đến thời gian dinh dưỡng và sinh sản của cá. Bảng 6. Mức độ tích luỹ mỡ của cá Tráp vây vàng theo tháng Tháng nghiên cứu Bậc độ mỡ N 0 1 2 3 4 N % n % n % n % n % n % I 0 0,00 0 0,00 25 2,43 27 2,63 20 1,95 72 7,01 II 0 0,00 17 1,66 24 2,34 19 1,85 20 1,95 80 7,79 III 0 0,00 0 0,00 41 3,99 41 3,99 40 3,89 122 11,88 IV 0 0,00 25 2,43 26 2,53 33 3,21 32 3,12 116 11,30 V 21 2,04 22 2,14 25 2,43 31 3,02 24 2,34 123 11,98 VI 0 0,00 33 3,21 33 3,21 36 3,51 31 3,02 133 12,95 VII 19 1,85 24 2,34 20 1,95 15 1,46 0 0,00 78 7,59 VIII 9 0,88 21 2,04 7 0,68 6 0,58 0 0,00 43 4,19 IX 0 0,00 25 2,43 18 1,75 12 1,17 0 0.0 55 5,36 X 0 0,00 29 2,82 28 2,73 20 1,95 0 0,00 77 7,49 XI 0 0,00 26 2,53 29 2,82 21 2,04 0 0,00 76 7,40 XII 0 0,00 0 0,00 18 1,75 16 1,56 18 1,75 52 5,06 Tổng 49 4,77 222 21,62 294 28,63 277 26,97 185 18,01 1.027 100 3.4. Chỉ số độ béo của cá Tráp vây vàng Chỉ số độ béo là giá trị để đánh giá mức độ đồng hóa thức ăn của cá, chúng tôi sử dụng cả hai phương pháp của Fulton (1902) và Clark (1928). Đối với cá tráp vây vàng ở đầm Ô Loan được trình bày ở bảng 7. Bảng 7 cho thấy, chỉ số độ béo của cá khá cao và tăng theo chiều tăng của tuổi. Tuổi càng cao hệ số béo cá càng lớn. Hệ số béo cao nhất ở nhóm cá tuổi 3+. Chỉ số độ béo của cá khác nhau giữa cá thể đực và cá thể cái trong cùng một nhóm tuổi, đồng thời khác nhau giữa các nhóm tuổi. Trong cùng một nhóm tuổi, hệ số béo của con cái cao hơn con đực. 28 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Bảng 7. Hệ số béo theo Fulton (1902) và Clark (1928) của cá Tráp vây vàng Tuổi Giống Chỉ số độ béo của cá N Theo Fulton (1902) Theo Clark (1928) 0 + Juv 1860.10 -6 1665.10 -6 150 1 + Đực 1926.10-6 1746.10-6 182 Cái 1994.10 -6 1795.10 -6 175 2 + Đực 2097.10-6 1896.10-6 145 Cái 2112.10 -6 1950.10 -6 151 3 + Đực 2271.10-6 2028.10-6 107 Cái 2362.10 -6 2101.10 -6 117 Từ kết quả của bảng 7 cho thấy, chỉ số độ béo tính theo công thức Fulton (1902) khá lớn so với chỉ số độ béo tính theo Clark (1928), liên quan chặt chẽ với các cơ quan chứa trong cơ thể, nhất là sự phát triển của tuyến sinh dục ở cá trong thời kỳ sinh sản. Mặc khác, sản phẩm dinh dưỡng, giá trị thương phẩm của cá phụ thuộc vào độ béo trong từng độ tuổi có được. Do vậy có thể căn cứ vào hệ số béo của cá để xác định tuổi khai thác quần thể phù hợp nhằm tận dụng tốt những lợi thế so sánh từng loại cá. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 1/ Kết luận 1. Thành phần thức ăn của cá Tráp vây vàng khá đa dạng, gồm 27 loại thức ăn. Ngành tảo silíc (Bacillariophyta) chiếm ưu thế về số lượng các loại thức ăn (với 14 giống). Cá Tráp vây vàng là loài ăn tạp. Phổ thức ăn được mở rộng từ nhóm cá kích thước nhỏ đến nhóm cá kích thước lớn. 2. Cường độ bắt mồi của cá Tráp vây vàng khá cao, độ no dạ dày và ruột của nhiều cá thể chủ yếu là bậc 1,2 và bậc 3. 3. Mức độ tích luỹ mỡ của cá Tráp vây vàng ở vùng đầm này khá cao. Số cá thể có độ bậc 2 là cao nhất. Nhiều cá thể có độ mỡ bậc 3 và bậc 4. 4. Hệ số béo của cá tráp vây vàng khá cao. Mức độ chêch lệch của hệ số béo tính theo công thức của Fulton (1902) và Clark (1928) khá lớn, cho thấy sức chứa nội quan của cá Tráp vây vàng là tương đối cao. 2/ Đề nghị TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3 * 2013 29 1. Chi cục bảo vệ nguồn lợi Thuỷ sản tỉnh Phú Yên chủ động kế hoạch, đầu tư thích đáng để phát triển nguồn lợi, đặc biệt là nguồn lợi cá nuôi để giảm áp lực tới việc khai thác nguồn lợi cá tự nhiên. Nghiên cứu mô hình và nhân nuôi cá Tráp vây vàng trở thành đối tượng nuôi phổ biến ở địa phương. 2. Cần tiếp tục nghiên cứu về đặc điểm sinh học của cá Tráp vây vàng để tiến tới nuôi thả loài cá kinh tế này. 3. Cần thử nghiệm tạo nguồn thức ăn nhân tạo để phục vụ cho việc nuôi thả cá Tráp vây vàng ở đầm Ô Loan trong thời gian tới TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Trần Hữu Đại (1999), Thực vật thuỷ sinh, Nxb Nông nghiệp TP Hồ Chí Minh. [2] Pradin. I. F (1973), Hướng dẫn nghiên cứu cá (Phạm Thị Minh Giang dịch), Nxb KH &KT, Hà Nội. [3] Nguyễn Xuân Quýnh (2001), Định loại các nhóm động vật không xương sống nước ngọt thường gặp ở Việt Nam, Nxb ĐH Quốc gia, Hà Nội. [4] Đặng Thị Sy (2005), Tảo học, Nxb ĐH Quốc gia, Hà Nội. [5] Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980), Định loại động vật không xương sống nước ngọt miền Bắc Việt Nam, Nxb KH &KT, Hà Nội. [6] Trần Văn Vỹ (1983), Thức ăn tự nhiên của cá, Nxb Khoa học và Kỹ thuât. Hà Nội. Trang 365. [7] Shirota. A (1968), The plankton in the South of Vietnam, Freshwater and Marine plankton, Overseas technical cooperation Agency, Japan. Abstract Nutritious particularity of Yellowfin Seabream fish (acanthopagrus latus) at O Loan lagoon in Phu Yen province Yellowfin seabream fish [Acanthopagrus latus (Houttuyn, 1782)] is one of the commercial species of exploitation at O Loan lagoon, but there have been very few studies on which so far. This paper provides the first data about the nutritional particularity of the fish: food composition, bait-catching capacity, fat accummulation process and fat coefficient. The food for this fish is of diversity, depending on the size of the fish. The intensity to take the bait and the tolerance of fat coefficient of Yellowfin seabream fish is quite high and depending on the nutrition and productivity periods of the fish. The tolerance of coefficient of fat of the fish calculated by Fulton’s formula (1902) and Clark’s formula (1928) is relatively high, which indicates the inherent capacity of Yellowfin seabream fish is rather big. Key words: Acanthopagrus latus, nutritional particularity, O Loan lagoon
File đính kèm:
- dac_tinh_dinh_duong_cua_ca_trap_vay_vang_acanthopagrus_latus.pdf