Các bước nâng cao kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên Đại học Điện lực thông qua thực hành Vlog
Trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong dạy học tiếng Anh, đặc biệt là rèn luyện kỹ năng nói để giúp sinh viên đạt được mức
độ tự tin và hiệu quả trong giao tiếp là vấn đề luôn được người dạy và người học quan tâm.
Thực tế, khi nghiên cứu về thực trạng dạy và học tiếng Anh tại các Trường Đại học nói chung
và Đại học Điện lực nói riêng, sinh viên luôn gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong phát triển
kỹ năng nói. Để tăng cường hiệu quả hoạt động dạy học kỹ năng nói, bài báo này giới thiệu
các bước thực hành mô hình Vlog trong phát triển kỹ năng nói với nhiều ưu thế nổi trội cho
sinh viên và giảng viên tại trường Đại học Điện lực, đồng thời đưa ra một số đề xuất để nâng
cao hiệu quả tự học, tự rèn luyện kỹ năng nói
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các bước nâng cao kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên Đại học Điện lực thông qua thực hành Vlog
ọc. Quan trọng nhất là chính bản thân sinh viên có thể tự phản hồi; tức là, có thể tự khắc phục các lỗi của mình sau khi tự xem lại bài nói của mình. Trả lời câu hỏi: bạn cảm thấy như thế nào sau khi xem lại clip của mình? SV cho biết: em đã tự nhận ra được những chỗ em đang nói sai và sẽ luyện tập để khắc phục các lỗi đó. Qua quan sát từng clip cho thấy một số sinh viên đã biết sửa sai sau khi nhận được phản hồi và tự phản hồi trong quá trình thực hiện Vlog. Một trong những ví dụ cho thấy việc sinh viên có thể sửa lỗi ngôn ngữ của mình là đã biết sửa cách phát âm những âm tiết cuối trong mỗi từ, ví dụ như các âm: /t/, /d/, /s/, /k/. Đây cũng là những âm mà người học Việt Nam thường hay bị mắc lỗi. Không chỉ giảng viên là đóng vai quan trọng trong quá trình học ngôn ngữ tiếng Anh, mà chính bản thân sự thể hiện ngôn ngữ qua các video trên Vlog đã giúp sinh viên rất nhiều trong việc phát triển sự tự chủ. Sinh viên cảm thấy thoải mái hơn khi nói tiếng Anh. Sinh viên cho biết luôn được giảng viên khuyến khích và dần dần trở nên không cảm thấy xấu hổ, e ngại khi quay các Videos và diễn đạt các suy nghĩ của mình. Một sinh viên cho biết “Bí quyết để lấy tự tin của em là luyện tập nhiều lần đến khi thành thạo”. Để có được các bài nói hoàn thiện, thời gian sinh viên luyện nói tiếng Anh tăng lên, 90,9% sinh viên quay đến lần thứ hai, trong đó có 56,3% luyện nói đến lần thứ ba và 27% đã phải luyện tập đến trên bốn lần. Sinh viên đã thể hiện được tính kiên nhẫn và niềm vui của mình Kiểm tra rà soát 1. Nghe lại bài nói trước khi đăng tải 2. Kiểm tra lại bài nói qua các tiêu chí: nội dung, cách sắp xếp ý và cách sử dụng ngôn ngữ. Sinh viên, bạn bè Đánh giá 1. Đánh giá nội dung, cách tổ chức ý và sử dụng ngôn từ của Vlog. 2. Làm lại Vlog (nếu cần thiết) Giảng viên và sinh viên 27Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion khi hoàn thành mỗi bài tập, ngay cả khi nó được coi là nhiệm vụ bắt buộc trong lớp học. “Sinh viên rất vui vẻ và tự tin về việc tạo ra Vlog của mình trông các bạn sinh viên rất vui” - Nhật kí giảng viên. Thực tế, sử dụng Vlog như một công cụ cải thiện môi trường học tập và nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía sinh viên, giúp sinh viên chủ động hơn trong quá trình học tập và tăng cường động cơ học tập. Sinh viên sẵn sàng tự giác hợp tác để tạo ra sản phẩm của mình mà không quá bị phụ thuộc vào việc đánh giá kết quả như là một yêu cầu bắt buộc đối với từng bài. Do đó, sinh viên đã thể hiện được sự cam kết khi lập kế hoạch, thiết kế, sáng tạo và thực hiện các video clips của mình sau các bài học với nhiều ý tưởng sáng tạo. 4.2. Vlog giúp nâng cao kĩ năng nói tiếng Anh cho sinh viên thông qua môi trường thực hành rèn luyện thường xuyên liên tục Vlog là cầu nối giúp sinh viên ý thức về quá trình học tập ở trường và rèn luyện kĩ năng nói tiếng Anh trong môi trường riêng của mình ở nhà. Sự tích hợp đó thể hiện trên cả hai bình diện; đó là, nâng cao ý thức rèn luyện kĩ năng nói tiếng Anh như một quá trình liên tục và gắn môi trường riêng của cá nhân sinh viên với môi trường lớp học. Như là một yếu tố tất yếu, việc sinh viên càng thực hành nói nhiều thì họ càng cải thiện được kĩ năng nói và trau dồi vốn ngôn ngữ. Theo dõi quá trình thực hành Vlog của sinh viên, với tần suất thực hành từ một đến hai tuần cho một Video đã cho thấy sự cải thiện đáng kể của từng cá nhân về độ trôi chảy, tốc độ nói và kĩ thuật phát âm. Qua quan sát các sản phẩm video clip từ đầu kì đến cuối kì cho thấy sinh viên đã thành thạo với các câu đơn, đặc biệt việc giới thiệu bản thân đã được thực hành đều đặn vào đầu mỗi video clip mới trước khi đi vào nội dung chính. Với số lần thực hành không giới hạn và việc tự kiểm tra lại video của mình, sinh viên đã dần khắc phục được phần nào việc nói chậm, ngắc ngứ, mắt luôn nhìn vào trang giấy để đọc. Ở cuối kì học, sinh viên đã mạnh dạn hơn, tốc độ nói nhanh hơn và số lần ngắc ngứ giảm hơn nhiều. So sánh các số liệu thu được từ đầu kì, trung bình sinh viên nói được khoảng 68 - 78 từ/ phút nhưng đến cuối kì tốc độ này nhanh hơn gần 85-90 từ/ phút. Mặc dù từ vựng ở giai đoạn đầu tương đối dễ, phần từ vựng ở các bài học về sau phần từ vựng ở mức độ khó hơn, sinh viên vẫn đạt được tốc độ nói nhanh hơn. Về kĩ thuật phát âm, sua khi phân tích các đoạn Video clips, cho thấy sinh viên đã biết sửa lỗi trong phát âm tiết cuối, trọng âm của từ, của câu và ngữ điệu để làm cho lời nói tiếng Anh trở nên mềm dẻo hơn, giúp cho người nghe thấy tự nhiên hơn. Ngoài ra, lỗi ngữ pháp trong việc thành lập câu cũng có nhiều cải thiện, cũng có thể do sinh viên có sự chuẩn bị trước nội dung nói của mình. Trong những clip đầu tiên, đa phần các câu nói của sinh viên cũng có lỗi về ngữ pháp hoặc ngữ âm. Tuy nhiên, qua quá trình thực hành hệ thống các bài luyện tập, sinh viên có thể hiện sự tiến bộ của mình đối với lỗi phát âm ở những video clip cuối kì. Trong quá trình phối hợp, giảng viên đã giúp sinh viên tự nhận thức về thành công trong việc học tiếng Anh có liên quan đến quá trình rèn luyện thực hành liên tục. Tuy nhiên, mỗi sinh viên sẽ có từng điểm mạnh, điểm yếu riêng. Giảng viên đồng 28 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion hành cùng sinh viên cả trong sự nhận thức về sự cải thiện tiến bộ cho dù ít hay nhiều của từng cá nhân trong việc nói tiếng Anh. “Sinh viên đã cải thiện việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh của mình thông qua việc họ nói lưu loát hơn và tự tin hơn.”- Nhật ký giảng viên. Vào cuối kì học, khi được hỏi, sinh viên đều khẳng định sự tiến bộ của bản thân và của các bạn cùng lớp trong cách nói tiếng Anh, sinh viên ý thức được việc rèn luyện kỹ năng nói là một quá trình thực hành liên tục. Xét về môi trường thực hành, khi sinh viên thực hành Vlog ngay tại nhà hay ở những nơi yêu thích, sinh viên sẽ không phải chịu áp lực hoặc bị can thiệp, tác động của những yếu tố ngoại cảnh khiến bản thân không cảm thấy thoải mái. Với những clip đầu tiên, sinh viên thể hiện sự không thoải mái, khá căng thẳng, ngượng ngập và lúng túng khi trình bày bằng tiếng Anh. Ở cuối kì, sau khi sinh viên sử dụng chiến lược giao tiếp cho phép sinh tương tác với bạn bè, qua đó thấy được sự vui vẻ đầy năng lượng, điều đó chứng tỏ rằng sinh viên cảm thấy vui và đang cố gắng tích cực hoàn thành mục tiêu nói bằng tiếng Anh. Trong quá trình phát triển kỹ năng cho sinh viên giảng viên đã nhận ra được những lý do ảnh hưởng đến sự e ngại hay xấu hổ của sinh viên do những vấn đề hạn chế về ngôn ngữ như phát âm chưa tốt, trọng âm và ngữ điệu chưa chính xác, tự nhiên, thiếu từ vựng và ý tưởng để diễn đạt. Những yếu tố này đã ảnh hưởng đến thực hành nói của sinh viên và có thể làm hạn chế đến kết quả tiến bộ. Việc chọn giải pháp Vlog cho phép giảng viên có thể kết nối các sinh viên có môi trường học tập riêng, năng lực riêng, hoàn cảnh riêng để sinh viên được phát huy tối đa năng lực của mình và dần dần hoàn thiện các hạn chế. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy sự tự giác chủ động của từng các nhân là khác nhau và khi sinh viên thực hiện lặp lại từ ba lần trở lên các bài nói của mình, thì mức độ hưng phấn của người nói có sự giảm xuống. 4.3. Lưu ý đối với giảng viên trong triển khai hoạt động Vlog cho sinh viên Thảo luận với sinh viên về chủ đề: Để lập kế hoạch cho việc xây dựng Vlog, việc khó khăn nhất mà sinh viên phải đối mặt là lúc phải chọn một chủ đề cụ thể. Vì vậy, giai đoạn này giảng viên nên đưa ra một số chủ đề hoặc câu hỏi để sinh viên thảo luận và lựa chọn trước khi làm Vlog. Chẳng hạn: Một bài giới thiệu về bản thân, bài hướng dẫn về cách làm một món ăn hoặc cách sử dụng một thiết bị, một bài phỏng vấn người thân hoặc bạn bè, bài giới thiệu về quê hương, kể về một chuyến dã ngoại hoặc du lịch tới nơi yêu thích. Điều quan trọng đối với giảng viên là giúp sinh viên tạo được cảm hứng, có cảm nhận và có vốn từ vựng cần thiết để nói về các chủ đề đã thảo luận và thống nhất. Khuyến khích sự sáng tạo: Khi sinh viên bắt đầu triển khai hình thành khái niệm về nội dung của chủ đề và những điều muốn truyền tải qua video, sinh viên sẽ viết dàn ý, dự thảo kịch bản và chỉnh sửa. Đặc biệt giảng viên không nên can thiệp vào các bước này để sinh viên luyện tập nói trước khi bắt đầu quay. Sinh viên cũng có thể được khuyến khích chỉnh sửa video trước khi đăng tải bằng cách chèn thêm hình ảnh, âm nhạc, hoặc những yếu tố có thể làm cho video thú vị hơn. Đây là bước sinh viên thực sự thể hiện sự sáng tạo và khả năng nói của mình. 29Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Trước khi phổ biến các bước để xây dựng video, để giúp sinh viên tự đánh giá và việc kiểm tra lại bài nói trước khi đăng tải video, giảng viên cần có một bảng tiêu chí để sinh viên kiểm tra lại nội dung xem liệu video của mình đã phù hợp và đáp ứng tiêu chí của giảng viên đưa ra hay chưa. Kể cả khi đã đăng tải xong, sinh viên có thể tự xem lại, kiểm tra và cập nhật. Đánh giá phản hồi: Công tác đánh giá trước tiên cần được thực hiện mở, tức là sinh viên có thể tự sửa lỗi cho bản thân, tự đánh giá dựa trên sản phẩm của mình, hoặc có thể lấy đánh giá góp ý của bạn bè. Nếu như phát hiện lỗi sai hoặc chưa hài lòng sinh viên có thể làm lại Vlog. Các tiêu chí đánh giá của giảng viên nên đưa ra dưới dạng câu hỏi để phản ánh sản phẩm của sinh viên. Phiếu đánh giá đưa ra các bậc năng lực giỏi, tốt, khá, cần luyện tập kèm với thang đánh giá từ 1-10. Mục đích của việc đưa phiếu hướng dẫn đánh giá cho sinh viên là để khuyến khích sinh viên tạo ra các Vlog tốt đáp ứng đủ các tiêu chí. Phiếu đánh giá tập trung vào các kỹ năng nói như cách phát âm, trọng âm và âm điệu. Hơn nữa, các đánh giá trong quá trình học tập cũng được đưa vào phiếu đánh giá như sự tích cực và hào hứng, sự tiến bộ và sự tham gia tích cực của sinh viên. 5. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho biết hiệu quả của việc sử dụng Vlog trong việc rèn luyện kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên tại trường Đại học Điện lực được rút ra cụ thể như sau: - Vlog giúp tạo động lực và khuyến khích sinh viên: Vai trò của Vlog cũng như một mạng xã hội được sinh viên sử dụng hàng ngày, vì vậy sinh viên sẽ thích dùng để bày tỏ quan điểm, cảm xúc và sự ứng biến. Vlog dễ sử dụng, hỗ trợ hoàn thành sản phẩm bài tập nói dễ dàng, nhanh chóng, kích thích sinh viên hào hứng, tự tin khi luyện tập nói và bộc lộ bản thân. Việc Vlog có quan hệ mật thiết với việc dùng mạng xã hội và có ảnh hưởng tới tâm lý sinh viên khi họ chuẩn bị cho bài nói nên sinh viên sẽ thể hiện mặt tốt và tích cực của bản thân trong Vlog của mình. Do vậy nên việc dùng Vlog sẽ cải thiện rõ rệt việc bộc lộ thể hiện khả năng của sinh viên đặc biệt là kỹ năng nói. - Vlog giúp sinh viên luyện nói nhiều hơn và tạo sự tự tin: Bằng cách đưa Vlog vào như một cách giảng dạy, sinh viên sẽ có cơ hội nói nhiều hơn ngoài lớp học. Vlog sẽ yêu cầu sinh viên phải nói và trình bày ý tưởng của mình bằng tiếng Anh, tất yếu là khả năng nói sẽ dần tốt lên và cải thiện khả năng phát âm, trôi chảy lưu loát, hạn chế được sự ngập ngừng và tạo được sự tự nhiên hơn trong nói tiếng Anh sau quá trình thực hiện các Vlog. - Vlog giúp rèn luyện thói quen tự học: Việc học dựa theo bài thực hành sẽ tạo dựng tính tự lập cho sinh viên. Vlog cũng là một trong các chiến lược của học dựa theo bài thực hành. Lợi ích của việc tự học là sinh viên có thể hiểu sâu bài học và quản lý được các ý tưởng liên quan đến bài học. Kết quả nghiên cứu có thể là một cơ sở nhằm tác động đến thay đổi phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá nhằm giúp người dạy và người học đạt hiệu quả tốt hơn trong giảng dạy và học tập tại trường Đại học Điện lực, cụ thể là cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin đa phương tiện vào giảng dạy nhằm 30 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nâng cao hiệu quả quá trình dạy và học. Dần dần chuyển sang phương pháp giảng dạy kết hợp giữa truyền thống (trên lớp) với học trực tuyến (ở nhà) ứng dụng các phần mềm, mà ở đây là Vlog nhằm giúp cho giảng viên giảm tải được khối lượng công việc giảng dạy trên lớp, tăng cường thời lượng cho các hoạt động thảo luận, seminar mà sinh viên chủ động được kế hoạch học tập của mình. Để đạt được điều này, giảng viên cần nâng cao năng lực ứng dụng các sản phẩm công nghệ thông tin vào giảng dạy một cách hiệu quả nhằm tạo cho sinh viên nhiều cơ hội để rèn luyện sự tự tin, phát triển bản thân, đặc biệt là trong quá trình rèn kĩ năng tiếng Anh. Khi nghiên cứu về những ưu điểm của Vlog, và một số thủ thuật trong khi ứng dụng Vlog để tối ưu hiệu quả giảng dạy và học tập kỹ năng nó i tiế ng Anh cho sinh viên Trườ ng Đạ i họ c Điệ n lự c nó i riêng và cá c trườ ng đạ i họ c ở Việ t Nam nó i chung, nhóm nghiên cứu cho rằng, việc dạy học thông qua ứng dụng Vlog sẽ hình thành và rèn luyện cho người học sự hiểu biết, chủ động điều khiển quá trình học tập của bản thân mình, phát huy nội lực tự học của con người để tạo nên cuộc cách mạng về học tập. Hiện nay, nhìn chung ở các trường đại học ở Việt Nam, vấn đề tự học đạt kết quả cao của sinh viên là một vấn đề mang tính thời sự, đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh Covid 19 như hiện nay đòi hỏi nhiều yếu tố, nếu biết tận dụng ưu điểm, hiệu quả của công nghệ thì việc giảng dạy và học tập tiếng Anh sẽ trở nên hiệu quả hơn, chủ động học tập hơn, góp phần tăng cường ý thức trách nhiệm của người học đối với việc đào tạo của bản thân mình, là thực hiện dân chủ hoá trong giáo dục góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục nói chung. Tài liệu tham khảo: [1]. Brown, H.D. (1994). Teaching by principles: an interactive approach to language pedagogy. Englewood Cliff s, NJ: Prentice Hall Regents. [2]. Burns, A., & Joyce, H. (1997). Focus on speaking. Sydney: National Center for English Language Teaching and Research. [3]. David F.E.T (2018). Vlogging Through Digital Lessons: Enhancing Speaking in an EFL Blended Learning Environment. MA Thesis. [4]. Glynn, S. M., Taavẽsoobshirazi, G., & Brickman, P. (2007). Non-science majors learning science: A theoretical model of motivation. Journal of Research in Science Teaching, 44(8), 1088-1107 [5]. Klippel, F. (1991). Keep talking. Cambridge: Cambridge University Press [6]. March, D. (2012) Blended Learning: Creating Learning Opportunities for Language Learners. New York: Cambridge University Press. [7]. Nunan, D. (1989). Designing tasks for the communicative classroom. Cambridge: Cambridge University Press. Địa chỉ tác giả: Phó Trưởng phòng Quản lý Khoa học và HTQT Trường Đại học Điện lực. Email: oanhhtk@epu.edu.vn
File đính kèm:
- cac_buoc_nang_cao_ky_nang_noi_tieng_anh_cho_sinh_vien_dai_ho.pdf