Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán

Nước là nguồn cội của sự sống, là một trong những hợp chất cấu tạo và nuôi dưỡng mọi sinh vật trên

trái đất. Nước gắn bó mật thiết với mỗi người, mỗi dân tộc và các nền văn hóa. Trong tiếng Hán và

văn hóa Trung Quốc, nước được ánh xạ tới rất nhiều hiện tượng, sự vật và sự tình. Dựa trên lý thuyết

ẩn dụ ý niệm của Lakoff và Johson (1980), bài viết sơ bộ phân tích về một số mô hình ẩn dụ khúc xạ

qua thành tố nước đến miền đích con người được biểu đạt qua lớp từ vựng tiếng Hán. Nghiên cứu

cho thấy, nước với những thuộc tính vốn có của nó qua quá trình tư duy, tri nhận mang đặc trưng văn

hóa dân tộc đã đóng vai trò là miền nguồn ánh xạ tới diện mạo, đặc điểm tính cách, tâm, trạng, tình

cảm, phẩm chất, trí tuệ, công sức và nghị lực của con người. Kết quả nghiên cứu nhằm góp thêm tài

liệu tham khảo trong dạy học, đối chiếu, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài tại Việt Nam.

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 1

Trang 1

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 2

Trang 2

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 3

Trang 3

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 4

Trang 4

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 5

Trang 5

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 6

Trang 6

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán trang 7

Trang 7

pdf 7 trang xuanhieu 3320
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán

Bàn về ẩn dụ ý niệm 水/nước với con người trong tiếng Hán
ra cảm giác say, để nhất thời quên được nỗi buồn, 
nhưng khi tỉnh lại nỗi ưu sầu lại càng não nề gấp bội.
(VD 4) 沅湘流不尽,屈
子怨何深
Nguyên Tương lưu bất 
tận, 
Khuất Tử oán hà thâm
Nguyên Tương chảy mãi 
không ngừng, nỗi oán 
trách của Khuất Tử sâu 
tới mức nào
Đới Thúc Luân đã viết ra câu thơ này trong bài “《过
三间庙》/Qua ba gian miếu” (
post-poem-126051-1.shtml), ví nỗi buồn hận, oán 
trách của Khuất Tử giống như nước sông Nguyên 
Tương chảy mãi không ngừng.
Lí Ích trong bài “《宫怨》/Cung oán” (
tianya.cn/post-poem-126051-1.shtml) đã viết:
(VD 5)似将海水添宫漏,共滴长门一夜长/Như thêm 
nước biển vào đo thời gian trong cấm cung, đêm dài ở 
Trường Môn biết bao giờ mới hết.
Câu thơ trên đã diễn tả tâm trạng buồn sầu của con 
người, khó đong đếm được như lượng nước trong 
đại dương.
Nhà thơ Đỗ Phủ cũng dùng câu:
(VD 6) 水静楼阴直,山
昏塞日斜
Thủy tĩnh lâu âm trực,
Sơn hôn tái nhật tà.
Mặt nước phẳng lặng soi 
bóng lầu gác, mặt trời 
xuống núi hoàng hôn 
bao trùm
(Đỗ Phủ《遣怀》/
Khiển hoài) (Trần Trọng 
Kim - tuyển dịch,1995).
Ý thơ đã miêu tả sự cô quạnh của nhà thơ trong dáng 
hoàng hôn lạnh lẽo, khiến cho tâm trạng càng trở nên 
bi sầu.
3.4. Nước là tình cảm
Tình cảm mang đến cho chúng ta sự ấm áp, gắn bó 
và sức mạnh. Cho dù là ở đâu, lúc nào, là người giàu 
có hay kẻ khốn khó, tình cảm cũng luôn tạo ra sự gắn 
bó, động lực sống và hạnh phúc cho mình. Vì vậy, 
tình cảm với cuộc sống mỗi người là điều vĩnh hằng, 
thiêng liêng và không thể thiếu được. Giống như cuộc 
sống không thể thiếu được nguồn nước, thể hiện qua 
các khái niệm trừu tượng, cũng có thể là sự vật cụ thể, 
mà các nhà thơ đã lấy đặc trưng của nước để diễn tả 
các cung bậc tình cảm khác nhau. Ví dụ: “高山流水/
Cao sơn lưu thủy – Nước chảy trên núi cao/bạn tri kỷ”, “
柔情似水/Nhu tình tự thủy – Tình nồng như làn nước/
tình yêu nam nữ quyến luyến bên nhau”, “望穿秋水/
Vọng xuyên thu thủy – Mong chờ xuyên nước mùa 
thu/mong ngóng bạn hiền nơi xa”.
Nước từ trong nguồn chảy ra, bao dung tới vạn vật trên 
trái đất, giống như người mẹ khi sinh ra những đứa 
con đã truyền máu thịt, nguồn dinh dưỡng cho con 
lớn lên. Trên thế gian này, chỉ có duy nhất người mẹ là 
luôn luôn mở rộng cõi lòng, sẵn sàng cho các con tất 
cả những gì mình có, luôn dõi theo mỗi bước đường 
con đi và luôn mong các con sớm đến bến bờ hạnh 
phúc. Vì vậy, ví nước giống như tình cảm của người 
mẹ là vô cùng xác đáng. Tiếng Hán diễn đạt như sau:
(VD 7) 大海,母
亲硕大的子宫 
孕育着一轮新生
的红日
所以,请别说海
水是咸的 
那是支撑骨架成
形的珍珠
不要说海水是苦
涩的 
那是母亲阵痛的
眼泪
别说海水是清
冷的 
那是毛铁成钢,
必经的淬火
从母亲的瞳孔
望去 
生命的暖色,弥
漫开来。
Biển cả, tấm lòng bao la của 
người mẹ,
Ấp ủ thai nhi như vầng dương 
vừa mọc.
Do vậy, đừng nói rằng nước 
biển là mặn,
Đó là châu ngọc tạo hình hài 
xương cốt.
Đừng cho rằng nước biển là 
đắng chát,
Đó chính là hàng lệ đau đớn 
của người mẹ.
Và đừng cho rằng nước biển là 
giá lạnh,
Phôi sắt muốn trở thành gang 
thép, phải qua nước lửa tôi rèn.
Hãy nhìn sâu vào đáy mắt mẹ,
Sẽ thấy ngập tràn hơi ấm cuộc 
đời. 
( 水 , 生 命 之 源 / N ư ớ c : 
cội nguồn của sự sống) 
(
poem-126051-1.shtml).
42 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
(VD 8) 大海啊大
海,
就像妈妈一样,
走遍天涯海角,
总在我身旁。
Hỡi biển cả bao la,
Giống như lòng của mẹ,
Dù con đến nơi góc bể chân 
mây,
Người vẫn luôn ở bên con.
(Đổng Văn Hoa《大海在呼
喚》/lời bài hát “Tiếng gọi 
nơi biển cả”)(
newxue.com/jingdianyu-
lu/134466164610869.html).
Trong “Kinh thi《诗经》” đã từng miêu tả dòng 
nước mềm mại là biểu tượng duyên mối của tình 
yêu như sau:
(VD 9)“关关睢鸠,在河之洲,窈窕淑女,君子好
逑/Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu 
thục nữ, quân tử hảo cầu: Thư cưu ứng đối, tại cồn sông 
bồi. Gái hiền thùy mị, Quân tử đẹp đôi” (
sina.com.cn/s/blog_405935730101dv69.html).
Đỗ Phủ đã viết trong bài “《登岳阳楼》Đăng Nhạc 
Dương lâu/Lên lầu Nhạc Dương” (G. Lakoff and M. 
Johnson, 1980) như sau:
(VD 10) “吴楚东南坼、乾坤日夜流/ Ngô Sở chia tách 
hai phía đông nam, đất trời đêm ngày chảy cùng nước”. 
Hồ Động Đình rộng lớn đã chia cắt hai nước Ngô-Sở. 
Chỉ có trăng, sao, mây, trời giao hòa với hồ nước. Hồ 
nước có thể chứa đựng được cả vũ trụ, tựa như tấm 
lòng rộng mở trải khắp thế gian, vượt qua tuổi tác 
thời gian, sóng gió cuộc đời cô đơn của nhà thơ. Sóng 
nước hồ Động Đình đã diễn tả cõi lòng khoáng đạt, 
tình cảm sâu nặng với cuộc đời của nhà thơ.
Lí Bạch trong bài “《赠汪伦》/Tặng Uông Luân” (Trần 
Trọng Kim - tuyển dịch, 1995) có câu:
(VD 11) “桃花潭水深千尺,不及汪伦送我情/Nước 
đầm Hoa Đào sâu nghìn trượng, nào sánh được tình 
cảm Uông Luân với mình”.
Câu thơ đã miêu tả tình bạn của Uông Luân đối với 
nhà thơ còn sâu hơn nước đầm Hoa Đào.
Lí Thiệp trong một đêm thao thức đã dùng tiếng 
nước suối chảy róc rách để diễn tả tình cảm bi sầu 
tha hương, và cuộc đời sóng gió của mình trong với 
bài “《在宿武关》/Nghỉ tại Vũ Quan” (
newxue.com/jingdianyulu/134466164610869.html):
(VD 12) “关门不锁寒溪水,一夜潺湲送客愁/Quan 
môn bất tỏa hàn khê thủy, nhất dạ sằn viên tống khách 
sầu – Cánh cửa đồ sộ như Vũ Quan cũng không chặn 
được dòng suối lạnh, dòng nước lững lờ trong đêm tiễn 
đưa nỗi buồn của lữ khách”. 
Nguyên Chân với bài “《离思》/Li tứ” (
tianya.cn/post-poem-126051-1.shtml) đã biểu đạt 
tình cảm tiếc thương sâu nặng của mình với người vợ 
đã mất qua câu:
(VD 13) “曾经沧海难为水,除去巫山不是云/Tằng 
kinh Thương Hải nan vi thủy, trừ khử Vu sơn bất thị vân 
– Đã qua Thương Hải thì khó có nước nơi nào là đẹp 
nữa, không núi nào có mây đẹp như Vu Sơn”.
Qua hình ảnh sông nước Thương Hải mênh mông, 
nhà thơ không còn cảm nhận thấy cái đẹp làn nước 
nơi khác của nữa. Vu Sơn có đỉnh Chiêu Vân cao như 
chạm tới mây trời, mây nơi khác không thể sánh được. 
Với nhà thơ, người vợ đã mất được ví như Thương Hải, 
Vu Sơn. Không cô gái nào khác có thể thay thế, giành 
được tình yêu của nhà thơ như dành cho vợ mình. 
Tình yêu này là vĩnh hằng.
Lí Bạch trong bài “《江夏行》/Giang hạ hành” (Trần 
Trọng Kim - tuyển dịch, 1995) đã viết:
(VD 14)“眼看帆去远,心逐江水流/Nhãn khán phàm 
khứ viễn, tâm trục giang thủy lưu – Mắt nhìn cánh buồm 
xa khơi, lòng theo con nước cùng đi với thuyền”.
Ý của hai câu thơ trên diễn tả tình cảm nhớ nhung 
của người thiếu phụ có chồng là thương nhân đang 
ngồi thuyền giong buồm đi xa. Tình cảm của người 
vợ dường như đang đuổi theo con nước chảy đến cập 
mạn con thuyền có người chồng đang ngồi.
Các ví dụ trên đã miêu tả tình thân, tình bạn và cả tình yêu 
qua miền ẩn dụ ý niệm nước là tình cảm của con người.
3.5. Nước là phẩm hạnh
Nước biểu trưng cho sự trong sạch. Bản thân nước có 
tính năng làm sạch, gột rửa và trung hòa. Nước còn 
giúp chữa khỏi một số bệnh tật, giúp cho con người 
tươi trẻ. Do đó, nước được coi là thiêng liêng, được 
dùng trong các nghi lễ tắm gội, xóa bỏ mọi lỗi lầm 
và mọi vết nhơ. Trong tiếng Hán, nước được ví như 
người có phẩm cách tốt đẹp qua cách diễn đạt: “上盖
若水/Thượng cái nhược thủy – Tưới cho vạn vật như 
nước/nước tưới mát cho vạn vật nhưng không tranh 
giành thứ gì”, “饮水思源/ẩm thủy tư nguyên - uống 
43KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
nước nhớ nguồn”, “静水流深/Tĩnh thủy lưu thâm – 
Nước lặng chảy vào chỗ sâu: đạo làm người là không 
khoa trương, có thái độ khiêm nhường, không để cho 
mâu thuẫn ràng buộc, không để cho dục vọng trói 
buộc”. Một số câu thơ diễn tả như sau:
(VD 15)“朗如日月,清如水镜/Lãng như nhật 
nguyệt, thanh như thủy kính – Sáng như mặt trăng 
mặt trời, trong như dòng nước và gương sáng”. (Dương 
Quýnh《郪县令扶风窦兢字思谨赞》Thê huyện lệnh 
phù phong độc kinh tự tư cẩn tán) (Trần Trọng Kim - 
tuyển dịch, 1995).
Ý thơ ca ngợi quan lại thời xưa thanh liêm chính trực. 
Ngày nay ví với những người có nhân cách và tiết 
tháo cao thượng, được mọi người ngưỡng mộ.
(VD 16)“息阴无恶木,饮水必清源/Tức âm vô ác 
mộc, ẩm thủy tất thanh nguyên – Nghỉ dưới tán cây 
cần chọn cây lành, uống nước sông cần chọn nơi có 
nguồn nước sạch”. (Vương Duy《济上四贤咏》Tế 
thượng tứ hiền vịnh/ Vịnh Tế Thượng Tứ hiền) (Trần 
Trọng Kim - tuyển dịch, 1995).
Tứ thơ miêu tả phẩm cách thanh bạch, cao thượng 
của con người.
(VD 17) “在山泉水清,出山泉水浊/Tại sơn tuyền thủy 
thanh, xuất sơn tuyền thủy trọc – Nước nguồn trong núi 
thì trong, nước ra khỏi núi nước trong đục ngầu”.
Đỗ Phủ đã ví sự thanh tao của ẩn sĩ khi sống trong núi, 
nhưng khi rời núi về với đời thường thì tâm hồn lại 
bị vẩn đục. (Đỗ Phủ《佳人》/Giai nhân) (Trần Trọng 
Kim - tuyển dịch, 1995).
3.6. Nước là trí tuệ và tài năng
Người Trung Quốc thường nói đến kiến thức với nhiều 
tầng bậc khác nhau, càng đi sâu nghiên cứu sẽ càng thấy 
được những điều tinh túy. Có cách diễn đạt như sau:
(VD 18) “知识好像砂石地下的泉水,掘得越深越清
澈/Kiến thức giống như dòng suối ngầm dưới lớp cát 
sỏi, càng đào sâu xuống thì càng trong” (https://mojim.
com/twy106358x1x1.htm).
(VD 19) “小溪声喧哗,大海寂无声/Con suối nhỏ 
tiếng nước chảy ào ào, biển lớn tịch mịch lặng tiếng” 
(https://mojim.com/twy106358x1x1.htm).
Ví dụ (19) miêu tả người có chút công trạng hay kiến 
thức thường ồn ào khoe khoang, lớn tiếng ồn ào như 
tiếng nước suối nhỏ tuôn chảy; người thực sự có kiến 
thức uyên thâm, bác học thường khiêm nhường ít 
tiếng, ví như sự tĩnh mịch của biển cả.
Trong tiếng Hán còn dùng:“求贤若渴/Cầu hiền 
nhược khát – Tìm người tài như người khát tìm nước 
uống/khát khao tìm kiếm nhân tài”, “沧海拾珠/
Thương hải thập châu – Nhặt châu ngọc nơi biển cả/
tìm kiếm nhân tài”, “蛟龙得水/Giao long đắc thủy – 
Giao long gặp nước: nhân tài có đất dụng võ”, “激浊
扬清/Kích trọc dương thanh – Gạn đục khơi trong/
chọn lấy người tài”để chỉ địa vị quan trọng của 
người có tài. Hoặc miêu tả những người giỏi giang 
qua cách diễn đạt: “八仙过海/Bát tiên quá hải – Tám 
vị tiên vượt biển/mỗi người có một biệt tài”, “口若悬
河/Khẩu nhược huyền hà - miệng như nước chảy trên 
cao/có biệt tài hùng biện”, “智者乐水/trí giả nhạc thủy 
– Người thông minh biết trị nước/người thông minh 
thường xử lí công việc, phản ứng linh hoạt như nước 
chảy”.
3.7. Nước là công sức và nghị lực
Nước chảy sinh ra công lực, tạo ra năng lượng. Trong 
tiếng Hán diễn đạt:“涓涓不息,而成江河/Quyên 
quyên bất tức, nhi thành giang hà – Dòng nước nhỏ 
chảy chậm, cũng tích thành sông lớn/tích tiểu thành 
đại”, “不到黄河不死心/Bất đáo Hoàng Hà bất tử tâm 
– Chưa đến Hoàng Hà thì lòng chưa nản/làm đến 
cùng”, “河山带砺/Hà sơn đới lệ – Hoàng Hà sông dài 
và hẹp, Thái Sơn đá thô ráp/dẫu bao lâu, biến cố thế 
nào cũng không thay đổi”, “中流砥柱/Trung lưu để trụ 
– Núi Đế Trụ vững chắc trong dòng xiết Hoàng Hà: trụ 
cột vững vàng”để biểu đạt nghị lực, quyết tâm của 
con người.
(VD 20)“凭他的那种水滴石穿的学习毅力一定能像
艺术的高峰发展/Với nghị lực học tập bền bỉ như vậy, nó 
nhất định sẽ vươn tới đỉnh cao của nghệ thuật” (http://
blog.sina.com.cn/s/blog_405935730101dv69.html).
Trong ví dụ trên, “水滴石穿/Thủy đê thạch xuyên – 
Nước nhỏ giọt nhưng có thể xuyên qua đá”, cũng chính 
là sự miêu tả ý chí bền bỉ, quyết tâm của con người.
Những ngữ cố định tiếng Hán biểu thị sự uổng phí 
công sức con người liên quan đến nước thường gặp 
như: “精卫填海/Tinh Vệ điền hải – Dã tràng xe cát/
công dã tràng, công cốc”, “打水漂/đả thủy phiêu – 
ném đá lướt trên mặt nước/uổng phí công sức mà 
không thu được kết quả gì”, tương tự còn có các ngữ 
cố định khác, như “海底捞月/hải để lao nguyệt – mò 
trăng đáy nước”, “竹篮打水/trúc lam đả thủy – dùng 
làn tre múc nước”, “煎水作冰/chiên thủy tác băng – 
rán nước làm băng”.
44 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 05 - 01/2017
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
Tiếng Hán đã ý niệm hóa, nhân cách hóa thực thể 
nước bằng những ngôn từ liên quan đến tự nhiên, xã 
hội và con người qua một số mô hình ẩn dụ ý niệm 
cấu trúc nêu trên. Với các mô hình ẩn dụ ý niệm bản 
thể và định hướng qua MIỀN NGUỒN là thành tố nước 
trong tiếng Hán, chúng tôi xin được luận bàn trong 
những nghiên cứu sau này.
4. KẾT LUẬN
Trải qua quá trình lịch sử, tiếng Hán đã chứa đựng 
trong mình những trầm tích văn hóa của các dân tộc 
Trung Hoa. Từ góc nhìn ẩn dụ ý niệm khúc xạ qua 
thành tố nước, bước đầu chúng ta có thể thấy được 
một số nét chấm phá của đặc trưng ngôn ngữ và văn 
hóa Trung Quốc. Là một trong ngũ hành, nước dưới 
góc nhìn của người Trung Quốc có rất nhiều đặc tính 
phức tạp, mang cả ý nghĩa tích cực và tiêu cực ánh xạ 
đến con người. Do đó, ý nghĩa ẩn dụ của nước trong 
ngôn ngữ Hán khá đa dạng, thể hiện rõ nét đặc điểm 
tri nhận, khả năng tư duy liên tưởng, gắn nước với đời 
sống xã hội của con người. Cho thấy, ẩn dụ ý niệm 
của nước không chỉ là vấn đề thuần túy ngôn ngữ, 
mà con là vấn đề văn hóa hết sức lý thú. Trong khuôn 
khổ bài viết này, chúng tôi đã cố gắng làm rõ mô hình 
ẩn dụ ý niệm của nước với con người trong ngôn ngữ 
Hán qua 7 tiểu loại khác nhau, gồm: nước đã đóng 
vai trò là miền nguồn ánh xạ tới diện mạo, đặc điểm 
tính cách, tâm trạng, tình cảm, phẩm chất, trí tuệ, công 
sức và nghị lực của con người. Tuy nhiên, những nội 
dung trên mới chỉ điểm qua ở một góc rất hẹp, còn 
tản mạn, chưa thể giải nghĩa thấu đáo, rõ ràng, đầy đủ 
về các vấn đề ẩn dụ ý niệm trong tiếng Hán. Chúng 
tôi hy vọng tới đây sẽ tiếp tục có những nghiên cứu 
để bổ sung tài liệu cho nghiên cứu, đối chiếu và dạy 
học ngôn ngữ – văn hóa nước ngoài tại Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
1. Phan Thế Hưng (2007), Ẩn dụ ý niệm, Tạp chí Ngôn 
ngữ, Số 7, tr. 9.
2. Trần Trọng Kim - tuyển dịch (1995), Đường thi, NXB 
Văn hóa Thông tin TP. Hồ Chí Minh.
3. Lí Toàn Thắng (2005),  Ngôn ngữ học tri nhận từ lí 
thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, NXB Phương 
Đông, Hà Nội.
4. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc tr ưng văn hoá 
– dân tộc của ngôn ngữ và t ư duy ở người Việt (trong sự 
so sánh với những dân tộc khác), NXB Đại học Quốc gia 
Hà Nội, Hà Nội.
5. G. Lakoff and M. Johnson (1980), Metaphor we live 
by, Chicago, London.
6. <
lu/134466164610869.html>.
7. .
8. <
blog_405935730101dv69.html>.
9. .
ON THE CONCEPTUAL CHINESE METAPHORS OF SHUI/WATER AS RELATED TO HUMANS
CAM TU TAI
Abstract: Water is the resource of life, is one of the compounds forms and nurtures all creatures 
on earth. Water is also more closely linked with each person, every nation and every culture. In 
Chinese and Chinese culture, water is mapped to a lot of phenomena, objects and contexts. This 
article is conducted based on the theory of conceptual metaphors by Lakoff and Johnson (1980) 
and through a preliminary analysis of some conceptual metaphors which are mapped to water 
elements in Chinese vocabulary. The article shows that water, with its inherent properties through 
the process of thinking and cognition, characterizes the Chinese culture whose role is the reflection 
source to the target source of human and their movements in social life. The articles depicts the 
metaphors of water, which contain human-related attributes are face, characteristic, mood, emotion, 
quality, intelligence, industriousness and determination. The research is undertook in an attempt to 
make a contribution to the teaching and researching of foreign languages and cultures in Vietnam 
and elsewhere.
Keywords: conceptual metaphors, Chinese, cognition, culture.

File đính kèm:

  • pdfban_ve_an_du_y_niem_nuoc_voi_con_nguoi_trong_tieng_han.pdf