Áp dụng các hoạt động kiến tạo áp phích để tăng cường kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên chuyên ngữ
Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm chứng tác động của quá trình áp dụng các hoạt
động kiến tạo áp phích như một công cụ đa trí tuệ trong việc tăng cường hứng thú học tập và
phát triển kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên năm 2 Khoa Ngoại ngữ, Ttrường Đại học Phú
Yên (ĐHPY).
Thông qua các hoạt động này, sinh viên có nhiều cơ hội tham gia, thể hiện và phát triển
kỹ năng nói tiếng Anh của mình, (Robert, 2015). Các công cụ nghiên cứu bao gồm: Chương
trình đào tạo áp dụng các hoạt động kiến tạo áp phích, một bảng khảo sát năng lực đa trí tuệ
của sinh viên, và 3 bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh để kiểm chứng tác động tích cực của
nghiên cứu đối với các nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm trước, trong và sau chương trình
luyện nói. Thời gian thực hiện nghiên cứu là 15 tuần.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Áp dụng các hoạt động kiến tạo áp phích để tăng cường kỹ năng nói tiếng Anh cho sinh viên chuyên ngữ
n cứu Kết quả thực hiện bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh được tính toán, phân tích và xem xét, nhằm đánh giá ảnh hưởng và hiệu quả của việc tích hợp các hoạt động đa trí tuệ trong lớp học để phát triển các kỹ năng nói tiếng Anh (Cấp độ B2), dựa trên thành tích học tập thể hiện qua các bài kiểm tra nói tiếng Anh của sinh viên tham gia nghiên cứu thực nghiệm. 3.1 Qui trình thống kê Phần mềm phân tích thống kê khoa học xã hội (SPSS, phiên bản 23.0) được sử dụng để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Hàm kiểm định thống kê T-test cũng được sử dụng để phân tích và kiểm chứng các điểm kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên trước, trong và sau tác động. 3.2. Giả thuyết chính của nghiên cứu Trong nghiên cứu này, giả thuyết chính cho rằng có một số khác biệt đáng kể trong bảng thống kê liên quan đến điểm số trung 22 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN bình của cột điểm của các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh trước, trong và sau tác động tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích như một công cụ đa trí tuệ trong các bài học thuộc chương trình rèn luyện phát triển kỹ năng nói tiếng Anh dành cho nhóm thực nghiệm so với điểm kiểm tra của nhóm đối chứng. Bảng thống kê dưới đây cho thấy kết quả phân tích các điểm kiểm tra của các bài kiểm tra kỹ năng nói trước, trong và sau tác động. Việc so sánh các cột điểm kiểm tra của sinh viên được thực hiện cho cả nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Bảng 3. Bảng so sánh điểm trung bình các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh trước (Bài kiểm tra số 1), trong (Bài kiểm tra số 2) và sau (Bài kiểm tra số 3) tác động giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng Nhóm thực nghiệm (30sv) Nhóm đối chứng (30sv) Giá trị P của phép kiểm chứng t-test Mức độ ảnh hưởng Điểm trung bình Độ lệch chuẩn Độ lệch chuẩn Bài kiểm tra số 1 6,1000 0,80301 6,0667 0,90719 0,869099 0,019431 Bài kiểm tra số 2 7,1000 0,75886 6,7000 0,79438 0,043397 0,249328 Bài kiểm tra số 3 7,4000 0,71197 6,7833 0,72734 0,000930 0,393820 Từ dữ liệu thu được ở Bảng 3 nêu trên, chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt đáng kể giữa các điểm trung bình của các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh được thực hiện trước, trong và sau tác động của việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong chương trình rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của chúng tôi. Sự khác biệt của điểm trung bình của bài kiểm tra số 2 giữa hai nhóm trong các bài kiểm tra nói tiếng Anh là 0,40 (7,10 – 6,70), cho thấy nhóm thực nghiệm có điểm trung bình tốt hơn so với nhóm đối chứng. Và một lần nữa, các kết quả trên lại được củng cố bằng kết quả của bài kiểm tra nói tiếng Anh sau khi áp dụng nghiên cứu thực nghiệm (bài kiểm tra số 3), với kết quả chênh lệch là 0,6167 (7,4000 – 6,7833). Mức độ chênh lệch giữa hai nhóm cao hơn trong bài kiểm tra sau tác động, điều này có nghĩa là chương trình rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích đã mang lại một số lợi ích cho sinh viên chuyên ngành tiếng Anh năm thứ hai. Do vậy, giả thuyết đã được chứng minh thành công, nghĩa là có sự khác biệt đáng kể giữa điểm số trung bình của các kết quả kiểm tra giữa các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh trước và sau tác động, trong đó điểm trung bình của bài kiểm tra sau tác động (Bài kiểm tra số 3) tốt hơn kết quả của các bài kiểm tra trước. Kết quả này cũng phù hợp với những nghiên cứu trước đây được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu Dorgham (2011), Sayed (2008) và Ghazala (2005). Tất cả các nghiên cứu trên đều cho thấy việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích (đa trí tuệ) trong các bài học luyện nói tiếng Anh đã được kiểm chứng là có hiệu quả trong việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. 4. Thảo luận Với giá trị p = 0,043397, nhỏ hơn 0,05 trong bài kiểm tra nói tiếng Anh thứ hai, bài kiểm tra diễn ra trong quá trình diễn ra TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 23 tác động, chúng ta có thể kết luận rằng sự khác biệt về điểm số trung bình giữa nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng là rất có ý nghĩa. Những khác biệt này cho thấy kết quả thu được từ các quy trình phân tích dữ liệu không thể xảy ra một cách ngẫu nhiên và những thay đổi về kết quả kiểm tra trong nghiên cứu này đều có nguồn gốc từ việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong chương trình rèn luyện phát triển kỹ năng nói tiếng Anh thực nghiệm của chúng tôi. Đồng thời, kết quả của bài kiểm tra thứ 3, bài kiểm tra nói tiếng Anh sau tác động, lại một lần nữa khẳng định lại kết luận trên. Với giá trị p là 0,000930, nhỏ hơn 0,001, chúng ta có thể khẳng định rằng sự khác biệt về điểm số trung bình của cả nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng là rất lớn. Do đó, giả thuyết nêu trong nghiên cứu của chúng tôi đã được chấp nhận, nghĩa là việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong chương trình đào tạo nói tiếng Anh của chúng tôi đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc nâng cao thành tích của sinh viên thể hiện qua các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh. Để đo lường mức độ ảnh hưởng, chúng tôi đã thực hiện các phép tính để đo độ lệch chuẩn và điều này sẽ giúp xác định mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng các hoạt động kiến tạo áp phích đối với việc phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Với công thức: SD = Điểm trung bình Nhóm thực nghiệm - Điểm trung bình Nhóm đối chứng x 1 Độ lệch chuẩn Nhóm đối chứng 2 Trong bài kiểm tra nói số 2, chúng ta có: chúng ta có kết quả: SD ≈ 0,25 Trong bài kiểm tra nói thứ 3, chúng ta có chúng ta có kết quả: SD ≈ 0,4 Theo Thang đánh giá Cohen, phạm vi mức độ ảnh hưởng được xếp từ mức độ rất nhỏ đến mức độ rất lớn dựa trên giá trị của độ ảnh hưởng. Giá trị SD trong bài kiểm tra thứ 2 cho thấy mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng các hoạt động kiến tạo áp phích là 0,25, có nghĩa là mức độ ảnh hưởng lớn. Điều này cho thấy sự gia tăng 0,4 của điểm số trung bình trong bài kiểm tra nói tiếng Anh số 2 có nghĩa là việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Giá trị SD trong bài kiểm tra số 3 cũng khẳng định một thực tế là mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng là 0,4. Đây là mức độ rất lớn theo Thang đánh giá Cohen. So với bài kiểm tra số 2, trong bài kiểm tra số 3, nhóm nghiên cứu đã thực hiện một số điều chỉnh về nội dung và phương pháp thực hiện các hoạt động kiến tạo áp phích, do đó kết quả thu được tốt hơn cho nhóm thực nghiệm và hiệu quả cũng cao hơn (0,4 > 0,25 theo số liệu thống kê trong Bảng 3). Kết quả này một lần nữa khẳng định rằng sự gia tăng 0,3 điểm trong điểm số trung bình của bài kiểm tra nói tiếng Anh số 3 là nhờ vào việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong các bài học kỹ năng nói tiếng Anh có ảnh hưởng lớn đến thành tích rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Mục đích chính của nghiên cứu này là khảo sát tính hiệu quả của việc tích hợp các 24 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN hoạt động kiến tạo áp phích trong chương trình đào tạo kỹ năng nói tiếng Anh nhằm thúc đẩy sự hứng thú học tập và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Đối với sự hứng thú học tập, tất cả sinh viên tham gia vào các bài học luyện nói tiếng Anh thực nghiệm của chúng tôi đều bày tỏ quan điểm chung rằng hầu hết các hoạt động kiến tạo áp phích (đa trí tuệ) áp dụng trong các bài học phát triển kỹ năng nói tiếng Anh đều thực sự mang lại động lực và có tính cuốn hút việc tham gia học tập rất cao. Tất cả 30 sinh viên trong nhóm thực nghiệm đã bày tỏ quan điểm rằng các bài học nói tiếng Anh tích hợp với các hoạt động kiến tạo áp phích đã mang lại cho các em cơ hội phát triển kỹ năng nói tiếng Anh nhằm giúp các em ngày càng tự tin hơn và có nhiều kỹ năng hơn trong các hoạt động nói tiếng Anh. Kỹ năng nói tiếng Anh cũng như các kiểu trí tuệ và phong cách học tập của sinh viên đã phát triển và nâng cao rõ rệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể ở mức độ ý nghĩa (0,01) (Bảng 3) giữa điểm số trung bình của các sinh viên tham gia trong ba (03) bài kiểm tra nói tiếng Anh với kết quả ngày càng tốt hơn. Kết quả này khẳng định giả thuyết tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong chương trình rèn luyện phát triển kỹ năng nói tiếng Anh đã mang lại những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các bài kiểm tra kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Ngoài ra, kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu trước đây, trong đó Thuyết đa trí tuệ được áp dụng trong việc phát triển và nâng cao kỹ năng giao tiếp trong lĩnh vực giảng dạy ngoại ngữ nói chung như nghiên cứu của Xie và các cộng sự (2009) và Bas (2010), và trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Anh nói riêng, đặc biệt trong việc phát triển kỹ năng nói tiếng Anh như các nghiên cứu của tác giả Sayed (2005), Dorgham (2011) và Salem (2013). Kết quả này đặc biệt phù hợp với kết quả nghiên cứu của Salem (năm 2013) nhằm khẳng định tính hiệu quả của việc áp dụng các hoạt động đa trí tuệ để phát triển kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ trước khi tham gia chương trình rèn luyện phát triển kỹ năng nói tiếng Anh. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy rằng chương trình đã có nhiều ảnh hưởng tích cực đến kỹ năng nói tiếng Anh của các đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn sinh viên tham gia thực nghiệm đều đạt được tiến bộ đáng kể trong việc rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh. Những tiến bộ nêu trên rõ ràng xuất phát từ việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích vào chương trình luyện nói tiếng Anh thử nghiệm. Các sinh viên tham gia nghiên cứu đã được đào tạo để phát huy hầu hết các kiểu trí tuệ sở trường của mình và sử dụng nhiều phong cách học tập khác nhau khi tham gia các hoạt động rèn luyện và phát triển kỹ năng nói tiếng Anh trên lớp. Nghiên cứu này cũng cho thấy việc sử dụng hiệu quả các thiết bị trực quan cũng như kết hợp các kỹ năng công nghệ thông tin, công nghệ trình chiếu đã hỗ trợ sinh viên rất nhiều trong các hoạt động trình bày, thuyết phục người nghe về các sản phẩm áp phích của mình thông qua kỹ năng nói tiếng Anh. Những kỹ thuật này đã giúp sinh viên trở thành những người truyền đạt tiếng Anh hiệu quả, không chỉ giới hạn ở các hoạt động luyện nói tiếng Anh trên lớp, mà còn tiếp tục được phát huy trong các hoạt động giao tiếp ngoài lớp học. Nhìn chung, kết quả của các bài kiểm tra nói tiếng Anh trước, trong và sau tác động cho thấy kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đây TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 15 * 2017 25 có thể được xem là minh chứng xác thực cho giả thuyết được nêu trong phần đầu của nghiên cứu này. Hầu hết các sinh viên tham gia nghiên cứu thực nghiệm đều đạt được những tiến bộ nhất định trong kỹ năng nói tiếng Anh của mình. Những thành tựu này là kết quả của việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích nói riêng, cũng như các hoạt động đa trí tuệ nói chung, trong chương trình đào tạo phát triển kỹ năng nói tiếng Anh thực nghiệm. 5. Kết luận Từ các kết quả nghiên cứu đã đề cập ở trên, có thể kết luận rằng việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích là một phương pháp hiệu quả để phát triển kỹ năng nói tiếng Anh của sinh viên. Chúng tôi nhận thấy việc tích hợp các hoạt động kiến tạo áp phích trong các bài học phát triển kỹ năng nói tiếng Anh trên lớp đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho cả giáo viên và sinh viên chuyển tiếp từ phương pháp dạy học truyền thống chủ yếu dựa trên hai kiểu trí tuệ suy luận lô gic và sử dụng ngôn ngữ qua phương pháp đa trí tuệ, với triết lý giáo dục mang đạm tính nhân văn “tất cả mọi sinh viên đều thông minh”, trong các hoạt động đào tạo và đánh giá năng lực học tập theo năng lực và phong cách học tập sở trường của mỗi cá nhân sinh viên TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Armstrong, T. (1995), Multiple Intelligences in the Classroom. Alexandria, VA: ASCD. [2] Bas, G. (2010), Effects of multiple intelligences supported project-based learning on students’ achievements levels and attitudes towards English lesson. International Electric Journal of Elementary Education, Vol.2, Issue 3, July 2010. [3] Christison, M.A. (1996), Teaching and Learning Languages through Multiple Intelligences. TESOL Journal, 6 (1), 10-14. [4] Dorgham, R. A. S. (2011), The effectiveness of a proposed program in developing the speaking skills of English language among preparatory stage pupils in the light of multiple intelligences theory. PhD thesis. Institute of Educational Studies. Cairo University. [5] Fakhar, N. (2015), Concepts of Speaking and Listening Skills. [6] Gardner, H (1983), Frames of Mind: The Theory of Multiple Intelligences, Basic Books, A Member of the Perseus Books Group, USA. [7] Salem, A. M. S (2013), The Impact of Multiple Intelligences-Based Instruction on Developing Speaking Skills of the Pre-Service Teachers of English. ISSN 1916-4742 (Print) ISSN 1916-4750 (Online). Canadian Center of Science and Education. [8] Sayed, M. M. (2008), Multiple Ways to be Smart: Gardner's Theory of Multiple Intelligences and its Educational English Teaching and Oral Communication. [9] Xie, J.C. et al, (2009), Research on multiple intelligences teaching and assessment. Asian Journal of Management and Humanity Sciences. Vol.4, N0.2-3. pp 106-124. [10] White, J (1997), Do Howard Gardner's Multiple Intelligences Add up? London: Institute of Education, University of London. 26 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Abstract Poster-making activities promote EFL students’ speaking skills This study aims at investigating the effect of using poster-making activities as a multiple intelligences (MI) tool on improving learning motivation and developing English speaking skills for second-year English major students at Phu Yen University. Based on the literature review and related studies, poster-making activities were selected for the English speaking training program. The experimental group consisted of 30 second-year students. Through poster-making activities, learners will have lots of opportunities to improve and develop their speaking English skills (Robert, 2015). Tools of the study included: A training program based on using poster-making activities as an MI tool to improve students’ learning motivation and develop their English speaking skills, an MI questionnaire, and 03 English Speaking pre-post tests administered to the experimental and controlled groups before and after the training course. The experimental English speaking training program was taught to students during a 15-week period. Key words: multiple intelligences, poster-making activities, motivation, speaking skills
File đính kèm:
- ap_dung_cac_hoat_dong_kien_tao_ap_phich_de_tang_cuong_ky_nan.pdf