Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá trê vàng (Clarias macrocephalus) giai đoạn cá bột lên cá giống
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu nhằm xác định nhu cầu đạm trong thức ăn của cá Trê vàng (Clarias
macrocephalus) giai đoạn cá bột lên cá giống. Nghiên cứu được thực hiện tại trại sản xuất
giống thủy sản phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Thí nghiệm được bố
trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 03 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 03 lần. Cá Trê
vàng (18,1 mg) được ương trong thùng nhựa chứa 25 lít nước với mật độ 5 con/lít trong
thời gian 10 tuần. Trong thí nghiệm này, ba loại thức ăn tương ứng với ba hàm lượng đạm
(30%, 35% và 40%) được thí nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng
đạm khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá Trê vàng. Các chỉ tiêu theo dõi của
nghiên cứu gồm: Tỷ lệ sống, tăng trưởng khối lượng của cá và hệ số FCR. Kết thúc thí
nghiệm, ở nghiệm thức thức ăn có hàm lượng đạm 40% cá tăng trưởng nhanh nhất và tỷ lệ
sống cao nhất với các giá trị lần lượt là 4.856 mg và 85,9%. Kết quả cho thấy rằng cá Trê
vàng được ương bằng thức ăn có hàm lượng đạm 40% cho tỷ lệ sống và tăng trưởng khối
lượng cao hơn có ý nghĩa (p < 0,05)="" so="" với="" cá="" ở="" các="" nghiệm="" thức="" còn="" lại.="" ngoài="" ra,="" chỉ="">
FCR đạt thấp nhất (1.32) ở nghiệm thức cá ăn thức ăn mức đạm 40%. Trong thí nghiệm
này, nhu cầu đạm của cá Trê vàng (18,1 mg) là 40%.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá trê vàng (Clarias macrocephalus) giai đoạn cá bột lên cá giống
gain-WG): WG (mm) = Lc - Lđ (1) Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 75 Tốc độ tăng trưởng chiều dài theo ngày (Daily lenght gain-DWG): DLG (mm/ngày) = (Lc - Lđ)/T (2) Tăng trưởng khối lượng (Weight gain-WG): WG (mg) = Wc - Wđ (3) Tốc độ tăng trưởng khối lượng theo ngày (Daily weight gain-DWG): DWG (mg/ngày) = (Wc - Wđ)/T (4) Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (Specific growth rate-SGR): SGR (%/ngày) = [(LnWc - LnWđ)/T] x 1000 (5) Tỷ lệ sống (Survival rate, SR): SR (%) = (Số cá thu được/Số cá thả ương) x 100 (6) Hệ số thức ăn (Feed convertion ratio, FCR): FCR = Khối lượng thức ăn sử dụng/ Khối lượng cá gia tăng (7) Chú thích: Lđ và Lc lần lượt là chiều dài của cá lúc thả và lúc thu (mm) Wđ và Wc lần lượt là khối lượng của cá lúc thả và lúc thu (mg) T là thời gian thực hiện thí nghiệm (ngày) 2.5. Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và so sánh sự khác biệt giữa trung bình các nghiệm thức bằng cách phân tích ANOVA một nhân tố áp dụng phép thử LSD, sử dụng phần mềm Statistica 5.0. 3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN 3.1. Các yếu tố môi trường thí nghiệm Các yếu tố môi trường nước như nhiệt độ và pH quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tăng trưởng và phát triển của hầu hết các loài cá nuôi. Tuy nhiên, các yếu tố môi trường nước thích hợp và ít biến động sẽ giúp cho cá tăng trưởng nhanh và ít bệnh. Trong suốt thời gian thí nghiệm, các yếu tố môi trường nước giữa các nghiệm thức tương đối ổn định và được thể hiện ở Bảng 2. Bảng 2. Biến động nhiệt độ, pH trong hệ thống thí nghiệm ương cá Trê vàng Chỉ tiêu Buổi Nghiệm thức NT1 NT2 NT3 Nhiệt độ (oC) Sáng 25,2±0,02 25,1±0,01 25,1±0,03 Chiều 29,4±0,15 29,3±0,09 29,5±0,14 pH Sáng 7,64 ±0,01 7,66 ±0,02 7,63 ±0,03 Chiều 7,83±0,04 7,85±0,07 7,87±0,05 Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 76 Bảng 2 cho thấy các yếu tố nhiệt độ và pH giữa các nghiệm thức tương đối ổn định và chênh lệch không đáng kể. Nhiệt độ trung bình trong ngày dao động 25,1±0,01 oC đến 29,5±0,14 oC; pH dao động trong khoảng 7,64±0,02 đến 7,87±0,05. Như vậy, các yếu tố nhiệt độ và pH đều nằm trong khoảng thích hợp đối với sự phát triển của cá trê vàng. 3.2. Tăng trưởng về chiều dài của cá trê vàng Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009), cá không thể sống, sinh trưởng và phát triển bình thường trong môi trường mà thức ăn không đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng, nhất là ở giai đoạn ương cá bột lên cá hương. Nếu thức ăn có hàm lượng đạm không phù hợp cá sẽ không đạt được tốc độ tăng trưởng như mong muốn, hay nói cách khác là công tác sản xuất giống không đem lại hiệu quả. Khi thức ăn cung cấp cho cá đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng thì cá sẽ tăng nhanh về khối lượng và hiển nhiên chiều dài cũng tăng theo tương ứng. Tăng trưởng về chiều dài của cá trê vàng trong thí nghiệm được trình bày ở Bảng 3. Bảng 3. Tăng trưởng về chiều dài của cá Trê vàng NT (% đạm) Lđ (mm) Lc (mm) LG (mm) DLG (mm/ngày) NT1: 30 12,5±0,510 55,7±1,88 43,2±1,90 a 0,72±0,030a NT2: 35 12,5±0,510 64,4±2,12 51,9±2,15 b 0,86±0,035b NT3: 40 12,5±0,510 76,6±1,85 64,1±1,85 c 1,07±0,030c Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về thống kê (p< 0,05). Lđ: Chiều dài cá ban đầu; Lc: Chiều dài cá khi kết thúc thí nghiệm; LG: Tăng trưởng chiều dài; DLG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về chiều dài. Tăng trưởng về chiều dài của cá tăng tương ứng ở các nghiệm thức và khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 3). Chiều dài của cá tăng khi hàm lượng đạm trong thức ăn tăng. Ở nghiệm thức cá sử dụng 40% đạm có chiều dài lớn nhất 64,1 mm/con. Ở nghiệm thức cá ăn thức ăn 30% đạm chiều dài của cá nhỏ nhất 43,2 mm/con. Giai đoạn cá còn nhỏ, chiều dài của cá tăng rất nhanh, nếu thức ăn cung cấp có thành phần dinh dưỡng phù hợp với giai đoạn phát triển cơ thể cá thì chiều dài sẽ gia tăng tối đa. 3.3. Tăng trưởng về khối lượng của cá Kết quả tăng trưởng về khối lượng của cá Trê vàng được ghi nhận ở Bảng 4. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 77 Bảng 4. Tăng trưởng khối lượng của cá thí nghiệm NT (% đạm) Wđ (mg) Wc (mg) WG (mg) DWG (mg/ngày) SGR (%/ngày) NT1: 30 18,1±0,55 3.572±21,6 3.554±21,6 a 59,3±0,350a 8,81±0,010a NT2: 35 18,1±0,55 3.873±21,6 3.853±21,5 b 64,3±0,352b 8,95±0,011b NT3: 40 18,1±0,55 4.874±21,3 4.856±21,5 c 80,9±0,351c 9,33±0,010c Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về thống kê (p< 0,05). Wđ: Khối lượng cá ban đầu; Wc: Khối lượng cá khi kết thúc thí nghiệm; WG: Tăng trưởng khối lượng; DWG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng; SGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối về khối lượng. Tốc độ tăng trưởng WG và SGR của cá trê vàng đạt cao nhất ở nghiệm thức sử dụng thức ăn chứa 40% đạm (lần lượt là 4.856 mg/con và 9,33 %/ngày) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các chỉ tiêu tương ứng đối với các nghiệm thức còn lại. Tốc độ tăng trưởng của cá trê vàng tăng dần từ nghiệm thức 1 (30% đạm) đến nghiệm thức 3 (40% đạm) (Bảng 4). Điều này chứng tỏ tốc độ tăng trưởng của cá trê vàng cũng tương tự như những loài cá khác như: cá lăng vàng (Mystus nemurus) (Khan et al., 1993); cá trê trắng (Clarias batrachus) (Meenakshi Jindal, 2011); cá kết (Micronema bleekeri) (Nguyễn Văn Triều và ctv., 2014). Khi sử dụng thức ăn với hàm lượng đạm thấp (không đủ nhu cầu về protein), cá sẽ tăng trưởng chậm, các hoạt động sống khác cũng giảm và tỷ lệ chết của cá sẽ tăng cao. Trái lại, cho cá ăn thức ăn chứa lượng đạm cao (vượt nhu cầu cần thiết) sẽ rất lãng phí (Lê Thanh Hùng, 2008). Hàm lượng đạm trong thức ăn là yếu tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của cá, giá thành và hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất giống. Vì vậy, việc xác định được hàm lượng đạm của cá ở các giai đoạn khác nhau và tối ưu hóa hàm lượng đạm trong thức ăn của cá là yếu tố rất cần thiết. Nhu cầu đạm được định nghĩa là lượng đạm tối thiểu mà nhằm thỏa mãn các nhu cầu acid amin để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1983). Cá trê có đặc tính ăn tạp, thức ăn chủ yếu là động vật. Trong tự nhiên, cá trê ăn côn trùng, giun đất, tôm, cua, cá Ngoài ra, ở điều kiện nuôi trong ao, cá trê có thể ăn các phụ phẩm từ trại chăn nuôi, nhà máy chế biến thủy sản, chất thải từ lò mổ (Dương Nhựt Long và ctv., 2014). Kết quả thí nghiệm ương cá trê vàng với các hàm lượng đạm khác nhau cho thấy, hàm lượng đạm phù hợp cho sự tăng trưởng của cá trê vàng là 40%. Nhu cầu chất đạm trong thức ăn của cá thay đổi tùy theo loài, theo giai đoạn phát triển, đặc điểm dinh dưỡng của cá (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009). Một số loài cá khác có tập tính ăn động vật cũng có nhu cầu đạm cao như: cá lóc (Channa striatus) là 55% (Mohanty và Samantaray, 1996), cá trê lai [Heterobranchus bidorsalis Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 78 (đực) X Clarias anguillaris (cái)] có nhu cầu đạm 50% (Diyaware et al., 2009). Trong khi đó, một số loài cá khác thì có nhu cầu đạm tương đương cá trê vàng như cá trê Heterobranchus longifilis là 45% (Olufeagba et al., 2002) hoặc 42,5% (Fagbenro et al., 1992), cá tra (P. hypophthalmus) cỡ 2,0g là 40,5%; cá ba sa (P. bocourti) cỡ 1,9g là 37,2%; cá hú (P. conchophilus) cỡ 0,86g là 48,5% (Trần Thị Thanh Hiền et al., 2003); cá kết (Micronema bleekeri) cỡ 269 mg là 43,2% (Nguyễn văn Triều và ctv., 2014). 3.3. Hệ số tiêu tốn thức ăn và tỷ lệ sống của cá Hệ số thức ăn và tỷ lệ sống của cá trong thí nghiệm được thể hiện ở Bảng 5. Bảng 5. Tỷ lệ sống của cá và hệ số tiêu tốn thức ăn Nghiệm thức thức ăn SR (%) FCR NT1: 30% đạm 81,7±3,61a 1,53±0,025c NT2: 35% đạm 83,1±3,33a 1,43±0,025b NT3: 40% đạm 85,9±2,01a 1,32±0,020a Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về thống kê. SR: Tỷ lệ sống; FCR: Hệ số tiêu tốn thức ăn. Bảng 5 cho thấy tỷ lệ sống của cá ở cả 3 nghiệm thức tăng dần khi hàm lượng đạm trong thức ăn tăng và đạt giá trị tương đối cao (81,7-85,9%). Ở nghiệm thức sử dụng thức ăn có 40% đạm cá đạt tỷ lệ sống cao nhất là 85,9±2,01% và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so (p> 0,05) với tỷ lệ sống của cá ở hai nghiệm thức còn lại. Kết quả của này phù hợp với kết quả nghiện cứu của Võ Văn Nhứt (2012), tỷ lệ sống của cá trê vàng tăng dần theo hàm lượng đạm. Ở nghiệm thức cá sử dụng thức ăn có hàm lượng 30% đạm cho giá trị FCR cao nhất (1,53), giá trị FCR giảm dần theo sự tăng dần của hàm lượng đạm trong thức ăn và đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức 40% đạm (1,32). Điều này cũng xảy ra tương tự trên các loài cá khác như: ở cá trê H. longifilis hệ số thức ăn giảm khi hàm lượng đạm trong thức ăn tăng đến 40% thì hệ số thức ăn đạt 1,33 (Jamabo and Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et al., 2011); ở cá trê (C. gariepinus) hệ số thức ăn là 1,28 khi cho cá ăn thức ăn có hàm lượng đạm 40% (Sotolu, 2010). Theo Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009), khi thức ăn được cung cấp có hàm lượng đạm cao trong giới hạn cho phép sẽ giúp người nuôi sử dụng thức ăn có hiệu quả. Quá trình này cũng xảy ra đối với cá trê vàng, khi phân tích các chỉ tiêu WG, SGR và FCR cho thấy, ở nghiệm thức cá sử dụng 40% đạm cho WG, SGR cao nhất và FCR thấp nhất Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 79 (1,32). Mối quan hệ giữa hàm lượng đạm trong thức ăn và hệ số thức ăn của cá đã được nhiều tác giả chứng minh: Ở cá hú, cá tra và cá ba sa (Trần Thị Thanh Hiền et al., 2003); cá trê trắng (Clarias batrachus) (Meenakshi Jindal, 2011); cá trê phi H. longifilis (Jamabo và Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et al., 2011) và cá trê C. gariepinus (Sotolu, 2010) là thức ăn cung cấp cho cá có hàm lượng đạm cao trong giới hạn cho phép sẽ giúp người nuôi tăng hiệu quả sản xuất, nhưng nếu hàm lượng đạm trong thức ăn vượt cá nhu cầu thì sẽ bị lãng phí. 4. KẾT LUẬN Cá Trê vàng giai đoạn giống có khối lượng trung bình 18,1 mg/con được ương với 3 nghiệm thức sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm khác nhau (30%, 35% và 40%) nhưng cùng mật độ, nguồn nước, cách chăm sóc và quản lý. Kết quả ở nghiệm thức cá sử dụng thức ăn có hàm lượng đạm là 40% cho tăng trưởng nhanh nhất về khối lượng (9,33 %/ngày) và chiều dài (1,07 mm/ngày), đồng thời tỷ lệ sống của cá đạt cao nhất (85,9%) và hệ số tiêu tốn thức ăn thấp nhất (1,32). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh Tuấn và Lam Mỹ Lan, 2014. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. 2. Jamabo, N. A., F. J. Alfred - Ockiya, 2008. Effects of dietary protein levelson the growth performance of Heterobranchus bidorsalis (Geoffrey- Saint-Hillarie) fingerlings from Niger delta. Afr. J. Biotechnil. 7 (14): 2483- 2485. 3. Khan, M. S., J. K. Ang and A. M. Ambak, 1993. Optimum dietary protein requirement of a Malaysia freshwater catfish, Mystus nemurus. Aquaculture, Volume 112, Issue 2-3: 227-235. 4. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 299 trang 5. Mohanty, S. S and K. Samantaray, 1996. Effect on varying levels of the dietary protein on the growth perfprmance and feed conversion efficiency of snakehead (Channa striatus) fry. Aquaculture nutrition (United Kingdom). 2 (2): 89-94. 6. NRC National Research Council, 1983. Nutrient requirements of fish National Academy press. Washington. 114pp. 7. Nguyễn Văn Triều, Trần Ngọc Tuyền, Trần Thị Thanh Hiền, Dương Nhựt Long và Nguyễn Anh Tuấn. 2014. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ. Trang 229-235. 8. Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 215 trang. 9. Samantaray K. and S.S. Mohanty, 1997. Interactions of dietary levels of protein and energy on fingerling snakehead (Channa striata). Aquaculture, 156: 241-249. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 02 - 2017 80 10. Sotolu A.O., 2010. Effects of varying dietary protein levels on the breeding performance of Clarias geriepinus broodstock and fry growth rate. Livestock Research for Rural Development 22 (4) 2010. 11. Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Thanh Phương và Trần Thị Tuyết Hoa, 2003. Nghiên cứu nhu cầu chất đạm, chất bột đường và phát triển thức ăn cho ba loài cá trơn nuôi phổ biến cá ba sa (Pangasius bocourti) cá hú (Pangasius conchophilus) và cá tra (Pangasius hypophthalmus). Đề tài cấp bộ. Khoa Thủy sản-Trường đại học Cần Thơ. 65 trang. 12. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 191 trang. EFFECT OF FEEDING DIFFERENT DIETARY PROTEIN LEVELS ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF BROADHEAD CATFISH (Clarias macrocephalus) FROM FRY TO FINGERLINGS STAGE Tran Ngoc Tuyen1 and Nguyen Van Trieu2 1Faculty of Applied Biology, Tay Do University (Email: tntuyen@tdu.edu.vn) 2Faculty of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University ABSTRACT The study was conducted at fish hatchery that located in Phu Thu ward, Cai Rang District, Can Tho City. The objective of this study was to determine dietary protein requirement of the broadhead catfish (Clarias macrocephalus) from fry to fingerling stage. The experiment was randomly set up with 3 treatments and 3 replications. The broadhead catfish (18,1mg) was nursed in the croncrete tanks (25L) with the density of 50 fish/L for the duration of 10 weeks. In this study, three different protein levels (30%, 35% and 40%) were tested in order to evaluate the effect of feeding different protein levels on growth and survival rate of the broadhead catfish. The parameters such as survival rate, mean weight gain, FCR were observed in this study. The end of the experiment, in treament of feeding 40% protein was the fastest growing and highest suvival rate with values respectively 4856 mg and 85.9%. The result showed that the broadhead catfish was fed on diets contained 40% protein gave significantly (p < 0.05) higher level of mean weight gain and survival rate compared to those of other treatments. In addition, the lowest FCR (1.32) was gained by feeding pellet feed of 40% protein. In this experiment, protein requirement of the broadhead catfish (Clarias macrocephalus) (18,1mg) was 40% CP. Key words: Dietary, protein requirement, growth, feed, survival rate.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_thuc_an_co_ham_luong_dam_khac_nhau_len_tang_tr.pdf