Ảnh hưởng của nồng độ enzyme và thời gian đến quá trình thủy phân sụn cá mập (Carcharhinus dussumieri)
TÓM TẮT Bài báo này công bố kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ enzyme đến quá trình thủy phân sụn cá mập (Carcharhinus dussumieri) bằng hỗn hợp enzyme alcalase-Papain. Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ enzyme và thời gian thủy phân có ảnh hưởng mạnh đến hàm lượng protein hòa tan, peptid, Naa, chondroitin sulphate và NNH3 tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain thích hợp cho quá trình thủy phân sụn cá mập là 0,3%. Sau 10h thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain với nồng độ enzyme 0,3%, nhiệt độ thủy phân 50ºC, thủy phân ở pH tự nhiên (6,8), khối lượng mẫu 2kg và tỷ lệ nước bổ sung 2 lít, dịch thủy phân có hàm lượng protein hòa tan, peptid, Naa, chondroitin sulphate và NNH3 cao gấp 7,06 lần, 3,68 lần, 9,01 lần, 83,42 lần và 1,27 lần so với ban đầu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của nồng độ enzyme và thời gian đến quá trình thủy phân sụn cá mập (Carcharhinus dussumieri)
m lượng protein hòa tan. Kết quả được thể hiện trên hình 3. Hình 3. Ảnh hưởng của nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain và thời gian thủy phân đến hàm lượng protein tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập. 14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 Từ kết quả phân tích ở hình 3 cho thấy theo thời gian thủy phân hàm lượng protein hòa tan tạo thành trong tất cả các mẫu thủy phân thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp alcalase-papain đều tăng theo sự tăng nồng độ enzyme và thời gian thủy phân nhưng mức độ tăng khác nhau tùy thuộc vào nồng độ enzyme. Cụ thể, sau 2 giờ thủy phân, hàm lượng protein hòa tan của dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain ở nồng độ enzyme 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 4,45 g/kg, 5,37g/kg, 6,24g/kg, 6,34g/kg và 6,46g/kg, cao gấp 2,23 lần, 2,69 lần, 3,12 lần, 3,17 lần và 3,23 lần so với ban đầu. Sau 10 giờ thủy phân, hàm lượng protein hòa tan của dịch thủy phân sụn cá mập với nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase- papain sử dụng 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 10,16 g/kg, 12,98g/kg, 14,12g/kg, 14,67g/kg và 14,89g/kg, cao gấp tương ứng so với ban đầu là 5,08 lần, 6,49 lần, 7,06 lần, 7,34 lần và 7,45. Kết quả này cho thấy khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain từ 0,1% ÷0,3% thì hàm lượng protein hòa tan tạo thành trong dịch thủy phân tăng mạnh theo thời gian và tăng mạnh theo chiều tăng nồng độ enzyme. Tuy vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì hàm lượng protein hòa tan tạo thành trong dịch thủy phân lại có xu thế tăng chậm lại và không tương xứng với mức độ tăng nồng độ enzyme. Mặt khác, kết quả đánh giá cũng cho thấy sự khác biệt về hàm lượng protein hòa tan tạo thành trong dịch thủy phân ở các mẫu bổ sung 0,3%, 0,4% và 0,5% không đáng kể, không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì không làm tăng đáng kể hàm lượng protein hòa tan trong dịch thủy phân dẫn tới nếu tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% sẽ dẫn tới lãng phí enzyme. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có nét tương đồng với một số nghiên cứu đã công bố trước đây. Cụ thể, năm 2004, Vũ Ngọc Bội khi nghiên cứu về quá trình thủy phân protein cá mối và cá cơm bằng enzyme protease từ B. subtilis S5 cho thấy nồng độ enzyme protease từ B. subtilis S5 thích hợp cho quá trình thủy phân cơ thịt cá mối là 0,3% và nồng độ enzyme protease từ B. subtilis S5 thích hợp cho quá trình thủy phân cá cơm trong sản xuất nước mắm là 0,2% [1]. Năm 2010, Trần Cảnh Đình tiến hành thủy phân hỗn hợp sụn cá mập khô và tươi bằng enzyme protease cho rằng nồng độ enzyme protease thích hợp là 0,2% [3]. Từ những phân tích ở trên cho thấy khi xét theo khía cạnh hàm lượng protein hòa tan thì sử dụng hỗn hợp enzyme alcalase - papain với nồng độ 0,3% là phù hợp cho quá trình thủy phân sụn cá mập. 2. Ảnh hưởng thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp alcalase-papain tới hàm lượng peptid tạo thành Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzym alcalase - papain với nồng độ khác nhau: 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Sau các khoảng thời gian: 0h, 2h, 4h, 6h, 8h và 10 giờ thủy phân, lấy mẫu dịch thủy phân để đánh giá hàm lượng peptid. Kết quả được thể hiện trên hình 4. Từ kết quả phân tích ở hình 4 cho thấy cũng giống như hàm lượng protein, hàm lượng peptid tạo thành trong tất cả các mẫu thủy phân thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain đều tăng theo nồng độ enzyme và thời gian thủy phân nhưng mức độ tăng khác nhau tùy thuộc vào nồng độ hỗn hợp enzyme sử dụng. Cụ thể, ở thời điểm sau 2 giờ thủy phân, hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain tương ứng với nồng độ enzyme 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 0,015146mg/mL, 0,01748 mg/mL, 0,020139mg/mL, 0,020561mg/mL và 0,020773mg/mL, cao gấp tương ứng 2,16 lần, 2,50 lần, 2,88 lần, 2,94 lần và 2,97 lần so với ban đầu. Ở thời điểm sau 10 giờ thủy phân, hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain tương ứng với nồng độ enzyme 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 0,019327 mg/mL, 0,02228mg/mL, 0,025735mg/mL, 0,026218mg/mL và 0,026564mg/mL, cao gấp 2,76 lần, 3,18 lần, 3,69 lần, 3,75 lần và 3,80 lần so với ban đầu. Kết quả này cho thấy khi Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15 tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain từ 0,1% ÷0,3% thì hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân cũng tăng mạnh theo thời gian và tăng mạnh theo chiều tăng nồng độ enzyme. Nhưng khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân tăng rất ít và không tương xứng với mức độ tăng nồng độ enzyme. Mặt khác, kết quả đánh giá cũng cho thấy sự khác biệt về hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân ở các mẫu bổ sung 0,3%, 0,4% và 0,5% không đáng kể, không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì không làm tăng hàm lượng peptid trong dịch thủy phân dẫn tới nếu tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% sẽ dẫn tới lãng phí enzyme. Từ các phân tích hàm lượng peptid ở trên cho thấy nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain thích hợp cho quá trình thủy phân sụn cá mập là 0,3%. 3. Ảnh hưởng thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp alcalase-papain tới hàm lượng Naa Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzym alcalase - papain với nồng độ khác nhau: 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Sau các khoảng thời gian: 0h, 2h, 4h, 6h, 8h và 10 giờ thủy phân, lấy mẫu dịch thủy phân để đánh giá hàm lượng Naa. Kết quả được thể hiện trên hình 5. Kết quả phân tích trình bày ở hình 5 cho thấy hàm lượng Naa tạo thành trong tất cả các mẫu thủy phân thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp alcalase-papain đều tăng theo thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp enzyme nhưng mức độ tăng của các mẫu thí nghiệm sử dụng nồng độ enzyme khác nhau cũng khác nhau. Cụ thể, sau 2 giờ thủy phân, hàm lượng Naa của dịch thủy phân tương ứng với nồng độ hỗn hợp enzyme 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 5,21243g/lít, 5,21243g/lít, 7,00673g/ lít, 7,11911g/kg và 7,21414g/lít, cao gấp tương ứng so với ban đầu là 4,24 lần, 4,98 lần, 5,70 lần, 5,79 lần và 5,87 lần. Ở thời điểm sau 10 giờ thủy phân, hàm lượng Naa của dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alca- lase-papain ở nồng độ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 8,28690g/lít, 9,62671g/lít, 11,08536 g/lít, 11,36078g/kg và 11,56613g/lít, cao gấp 6,74 lần, 7,83 lần, 9,01 lần, 9,24 lần và 9,40 lần so với ban đầu. Kết quả này cũng cho thấy khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain từ 0,1% ÷0,3% thì hàm lượng Naa tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập tăng mạnh theo chiều tăng nồng độ enzyme và thời gian thủy phân. Trái lại, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì hàm lượng Hình 4. Ảnh hưởng của nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain và thời gian thủy phân đến hàm lượng peptid tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập. 16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 Naa tạo thành trong dịch thủy phân lại tăng rất chậm, không đáp ứng được mức độ tăng nồng độ enzyme. Như vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì không làm tăng đáng kể hàm lượng Naa trong dịch thủy phân dẫn tới nếu tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% có thể dẫn tới lãng phí enzyme. Từ những phân tích ở trên khi xét theo khía cạnh hàm lượng nitơ acid amin thì sử dụng hỗn hợp enzyme alcalase - papain để thủy phân sụn cá mập với nồng độ enzyme 0,3% là phù hợp. 4. Ảnh hưởng thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp alcalase-papain tới hàm lượng chodroitin sulphate tạo thành Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzym alcalase - papain với nồng độ khác nhau: 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Sau các khoảng thời gian: 0h, 2h, 4h, 6h, 8h và 10 giờ thủy phân, lấy mẫu dịch thủy phân để đánh giá hàm lượng chondroitin sulphate. Kết quả được thể hiện trên hình 6. Kết quả phân tích trình bày ở hình 6 cho thấy hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành trong tất cả các mẫu thủy phân thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp alcalase-papain đều tăng theo thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp enzyme nhưng mức độ tăng khác nhau tùy thuộc vào nồng độ enzyme. Ở giai đoạn sau 2 giờ thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain, hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành trong dịch thủy phân của các mẫu thí nghiệm sử dụng enzyme với nồng độ 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 7,33062mg/mL, 9,11400mg/mL, 9,84540mg/ mL, 10,43168mg/mL và 10,54282mg/mL, cao gấp tương ứng so với ban đầu là 18,85 lần, 23,43 lần, 25,31 lần, 26,82 lần và 27,10 lần. Ở thời điểm sau 10 giờ thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain, hàm lượng chondroitin sulphate của dịch thủy phân tương ứng với nồng độ enzyme đã sử dụng 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% là 23,23486mg/ mL, 28,40800mg/mL, 32,44880mg/mL, 33,05696mg/mL và 33,09104mg/mL, cao gấp tương ứng 59,73 lần, 73,03 lần, 83,42 lần, 84,98 lần và 85,07 lần so với ban đầu. Kết quả này cho thấy khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain từ 0,1% ÷0,3% thì hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành trong dịch thủy phân tăng mạnh theo chiều tăng nồng độ enzyme. Tuy vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành trong dịch thủy phân có xu hướng tăng chậm lại và mức độ tăng không tương xứng với mức độ tăng nồng độ enzyme. Mặt khác, kết quả đánh giá cũng cho thấy sự khác biệt về hàm lượng chondroitin Hình 5. Ảnh hưởng của nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain và thời gian thủy phân đến hàm lượng Naa tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập. Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17 sulphate tạo thành trong dịch thủy phân của các mẫu bổ sung enzyme với nồng độ 0,3%, 0,4% và 0,5% không đáng kể, không có ý nghĩa thống kê. Như vậy, khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% thì không làm tăng đáng kể hàm lượng chondroitin sulphate trong dịch thủy phân dẫn tới khi tăng nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain > 0,3% sẽ dẫn tới lãng phí enzyme. Từ những phân tích ở trên khi xét theo khía cạnh hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành thì nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase - papain thích hợp cho quá trình thủy phân sụn cá mập là 0,3%. 5. Ảnh hưởng thời gian thủy phân và nồng độ hỗn hợp alcalase-papain tới hàm lượng N NH3 Tiến hành 5 mẫu thí nghiệm thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzym alcalase - papain với nồng độ khác nhau: 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5%. Sau các khoảng thời gian: 0h, 2h, 4h, 6h, 8h và 10 giờ thủy phân, lấy mẫu dịch thủy phân để đánh giá hàm lượng N NH3 . Kết quả được thể hiện trên hình 7. Hình 6. Ảnh hưởng của nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain và thời gian thủy phân đến hàm lượng chondroitin sulphate tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập. Hình 7. Ảnh hưởng của nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain và thời gian thủy phân đến hàm lượng N NH3 tạo thành trong dịch thủy phân vi sụn cá mập. 18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2020 Từ kết quả phân tích ở hình 7 cho thấy hàm lượng N NH3 tạo thành trong các mẫu thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase- papain với nồng độ enzyme sử dụng khác nhau đều tăng theo thời gian thủy phân nhưng mức độ tăng chậm và khác nhau không đáng kể giữa các mẫu thí nghiệm. Cụ thể, sau 10 giờ thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzym alcalase - papain, các mẫu thủy phân sử dụng enzyme với nồng độ: 0,1%, 0,2%, 0,3%, 0,4% và 0,5% đều có hàm lượng N NH3 tăng trong khoảng từ 1,13-1,27 lần so với ban đầu và sự chênh lệch về hàm lượng N NH3 giữa các mẫu thí nghiệm không có ý nghĩa thống kê. IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Từ các kết quả nghiên cứu ở trên cho phép rút ra kết luận: 1) Nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase- papain và thời gian thủy phân có ảnh hưởng mạnh đến hàm lượng protein hòa tan, peptid, Naa, chondroitin sulphate và N NH3 tạo thành trong dịch thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain. 2) Nồng độ hỗn hợp enzyme alcalase-papain thích hợp cho quá trình thủy phân sụn cá mập là 0,3%. Sau 10h thủy phân sụn cá mập bằng hỗn hợp enzyme alcalase-papain với nồng độ enzyme 0,3%, nhiệt độ thủy phân 50ºC, thủy phân ở pH tự nhiên (6,8), khối lượng mẫu 2kg và tỷ lệ nước bổ sung 2 lít, dịch thủy phân có hàm lượng protein hòa tan, peptid, Naa, chondroitin sulphate và N NH3 cao gấp 7,06 lần, 3,68 lần, 9,01 lần, 83,42 lần và 1,27 lần so với ban đầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt 1. Vũ Ngọc Bội (2004), Nghiên cứu quá trình thủy phân protein cá bằng enzyme protease từ B. subtilis, Luận án tiến sĩ Sinh học chuyên ngành Hóa sinh, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP. Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 2. Vũ Ngọc Bội, Lê Hương Thủy, Phạm Thị Hương, Đặng Thị Thu Hương (2015), “Nghiên cứu thủy phân moi biển (Acetes sp) bằng hỗn hợp enzym alcalase - bromelin thô”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Thủy sản, Số 4/2015, Trường Đại học Nha Trang, Trang 18-26. 3. Trần Cảnh Đình và cộng sự (2010), Nghiên cứu ứng dụng sản xuất thử nghiệm chondroitin và glucosamin từ nguyên liệu thủy sản, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học thuộc chương trình CNSH - thủy sản, Viện Hải sản, Hải phòng. 4. Đặng Văn Hợp, Đỗ Minh Phụng, Vũ Ngọc Bội, Nguyễn Thuần Anh (2010), Phân tích kiểm nghiệm thực phẩm thủy sản, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 5. Phạm Thị Khánh Vân & Vũ Thị Thái (2004), "Phím nước mắt và tác dụng của chondroitin sulphat". Tạp chí Thuốc và Sức khỏe, Số 273(12). Tiếng Anh 6. Antonilli L. and Paroli E. (1993), “Role of the oligosaccharide inner core in the inhibition of human leukocyte elastase by chondroitin sulfates”, Int. J. Clin. Pharmacol. Res.;13 Suppl:11-7. 7. Bruyere O. & Reginster J. Y. (2007), "Glucosamine and chondroitin sulfate as therapeutic agents for knee and hip osteoarthritis”, Drugs Aging, 24(7): p. 573-580. 8. Farndale W. R., Buttle D. J. & Barrett A. J. (1986), "Improved quantitation and discrimination of sulphated glycosaminoglycans by use of dimethylmethylene blue", Biochim. Biophys. Acta., 883: p. 173-177. 9. J. Jayaraman (1998), Laboratory manual in biochemistry, Wiley Eastern Limited. 10. Robert M. Lauder (2009), "Chondroitin sulphate: A complex molecule with potential impacts on a wide range of biological systems", Complementary Therapies in Medicine, 17: p. 56-62.
File đính kèm:
- anh_huong_cua_nong_do_enzyme_va_thoi_gian_den_qua_trinh_thuy.pdf