Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi

TÓM TẮT

Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của các mật độ và độ mặn khác nhau lên tăng

trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng để làm cơ sở xây dựng quy trình ương đối tượng

này, đồng thời góp phần đa dạng hóa các đối tượng cho nghề nuôi cá vùng nước lợ ven

biển ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nghiên cứu gồm hai thí nghiệm về (i) ảnh hưởng của

mật độ ương lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng và (ii) ảnh hưởng của độ mặn

lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng. Ở thí nghiệm thứ nhất, cá bống tượng cỡ

535±4,19 mg được ương với 3 nghiệm thức mật độ là 1 con/L (NT1); 2 con/L (NT2) và 3

con/L (NT3). Cá được ương trong hệ thống bể composite 35 lít. Kết quả sau hai tháng ương

cho thấy tỷ lệ sống của cá dao động từ 94,4 -95,6% và khác biệt không có ý nghĩa giữa các

nghiệm thức. Tăng trưởng của cá nhanh nhất ở mật độ 1 con/L, khác biệt có ý nghĩa giữa

các nghiệm thức. Trong thí nghiệm hai, cá bống tượng cỡ 575±3,13 mg được ương với 3

nghiệm thức độ mặn là 5‰ (NT1); 10‰ (NT2) và 15‰ (NT3). Kết quả sau hai tháng ương

cho thấy tỷ lệ sống của cá dao động từ 95,5-97,8%, khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05)

giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên ở các độ mặn 5‰ và 10‰ cá tăng trưởng nhanh hơn so

với cá ương ở độ mặn 15‰, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<>

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 8

Trang 8

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 9

Trang 9

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang xuanhieu 22320
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi

Ảnh hưởng của mật độ và độ mặn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống tượng (Oxyeleotris marmoratus) giai đoạn 1 đến 3 tháng tuổi
c nhau 
Tỷ lệ sống của cá bống tượng ở ba 
mật độ đều đạt mức cao và tương đương 
nhau, dao động từ 94,4-95,6% (Hình 1), 
không khác biệt có ý nghĩa. Kết quả này 
khác với nghiên cứu của Tiêu Minh 
Luân (2010) về ảnh hưởng của mật độ 
lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá 
bống tượng giai đoạn cá bột lên cá giống 
trong ao nuôi so sánh giữa250 con/m2, 
500 con/m2, 750 con/m2 thì tỷ lệ sống 
của cá giảm khi tăng mật độ ương. Theo 
Trang Văn Phước và ctv., (2012), ương 
cá Sặc rằn (Trichogaster pectoralis) giai 
đoạn cá hương lên cá giống với các mật 
độ 200, 300 và 400 và 500 con/m3 thì tỷ 
lệ sống của cá khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05), tỷ lệ sống đạt 
cao nhất (89,3%) ở nghiệm thức 200 
con/m3 và thấp nhất (71,5%) ở nghiệm 
thức 400 con/m3. 
3.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên 
tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá 
3.2.1. Các yếu tố môi trường thí 
nghiệm 
Nhiệt độ nước trong hệ thống bể ương 
cá bống tượng dao động từ 26,7±0,38 oC 
đến 28,9±0,09 oC; pH dao động trong 
khoảng 7,51±0,01 đến 7,56±0,03 (Bảng 
5). Như vậy, các yếu tố nhiệt độ và pH 
đều nằm trong khoảng thích hợp đối với 
sự phát triển của cá bống tượng. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
105 
Bảng 5. Biến động nhiệt độ, pH nước khi ương cá ở độ mặn khác nhau 
Chỉ tiêu Buổi 
Nghiệm thức 
5‰ 10‰ 15‰ 
Nhiệt độ (oC) 
Sáng 27,2±0,28 26,7±0,38 26,9±0,29 
Chiều 28,8±0,11 28,9±0,09 28,6±0,09 
pH 
Sáng 7,52 ±0,02 7,51±0,01 7,51±0,01 
Chiều 7,56±0,03 7,55±0,02 7,55±0,01 
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn. 
3.2.2. Ảnh hưởng của độ mặn lên tăng trưởng của cá 
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng của cá bống tượng khi ương với các độ 
mặn khác nhau được trình bày trong Bảng 6. 
Bảng 6. Tăng trưởng khối lượng của cá ở độ mặn khác nhau 
Độ mặn WG (mg) DWG (mg/ngày) SGR (%/ngày) 
NT1: 5‰ 1.794±8,50a 32,0±0,15a 2,53±0,01a 
NT2: 10‰ 1.502±12,5b 26,8±0,22b 2,29±0,01b 
NT3: 15‰ 1.088±13,5c 19,4±0,24c 1,90±0,01c 
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về 
thống kê (p< 0,05). WG: Tăng trưởng khối lượng; DWG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về 
khối lượng; SGR: Tốc độ tăng trưởng tương đối về khối lượng. 
Tăng trưởng khối lượng của cá khi 
kết thúc thí nghiệm (Bảng 6) dao động 
trong khoảng 1.088-1.794 mg/con và có 
sự khác biệt thống kê (p<0,05) giữa ba 
nghiệm thức. Cá đạt khối lượng cao nhất 
ở 5‰ (1.794±8,50 mg/con) và thấp nhất 
ở 15‰ (1.088±13,5 mg/con). Ngoài ra, 
tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ngày 
(DWG) và tăng trưởng đặc biệt (SGR) 
về khối lượng của cá ở các nghiệm thức 
dao động từ 19,4-32,0 mg/ngày và 1,90-
2,53%/ngày. Các chỉ tiêu DWG và SGR 
đều đạt giá trị cao nhất ở 5‰ và thấp 
nhất ở 15‰. Điều này cũng được khẳng 
định sự tăng trưởng nhanh của một số 
loài cá nước ngọt ở độ mặn dưới hoặc 
ngang bằng điểm đẳng áp. Theo Huỳnh 
Hiếu Lộc (2009), ở độ mặn 10‰ áp suất 
thẩm thấu máu ở cá bống tượng tương 
đương với áp suất thẩm thấu môi trường 
(292 mOsm/kg) và cá tăng trưởng nhanh 
nhất ở độ mặn 5‰. Theo Đỗ Thị Thanh 
Hương và Ngô Tú Trinh (2013), ở độ 
mặn 12‰ áp suất thẩm thấu máu ở cá 
lóc tương đương với áp suất thẩm thấu 
môi trường (323 mOsm/kg) và cá tăng 
trưởng nhanh nhất ở độ mặn 3‰. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
106 
Độ mặn đóng vai trò quan trọng đối 
với cá do chúng phải duy trì hàm lượng 
muối hòa tan trong cơ thể ở mức độ ổn 
định. Thông qua quá trình điều hòa áp 
suất thẩm thấu, cá phải tiêu hao năng 
lượng để duy trì mức độ này. Mỗi loài cá 
đều có một độ mặn thích hợp để sống và 
tăng trưởng. Cá cần phải duy trì nồng độ 
muối cần có trong cơ thể để đáp ứng các 
nhu cầu sinh lý của cơ thể. Áp suất thẩm 
thấu tăng khi cá sống trong môi trường 
nước có độ mặn tăng. Các muối trong 
nước làm thay đổi bản chất hóa học tự 
nhiên của nước đồng thời thay đổi áp 
suất thẩm thấu lên cá và cá phải liên tục 
thay đổi các hoạt động sinh lý để duy trì 
thành phần hóa học của cơ thể để chống 
lại sự thay đổi của áp suất thẩm thấu. 
Qua kết quả về sự tăng trưởng khối 
lượng cho thấy ở nghiệm thức có độ 
mặn thấp (5‰) thì cá bống tượng tăng 
trưởng nhanh hơn cá ở nghiệm thức có 
độ mặn cao (15‰). Khi độ mặn trong 
môi trường sống trên 15‰ (Huỳnh Hiếu 
Lộc, 2009) thì cá bống tượng phải mất 
nhiều năng lượng để điều hòa áp suất 
thẩm thấu và ion cơ thể bằng cách giữ 
lại nước và thải ion ra khỏi cơ thể qua 
mang là chính. 
3.2.3. Ảnh hưởng của độ mặn lên 
phân hóa sinh trưởng của cá 
Tỷ lệ phân hóa khối lượng của cá 
bống tượng khi ương với độ mặn khác 
nhau được ghi nhận ở Bảng 7. 
Bảng 7. Phân hóa sinh trưởng của cá ương ở độ mặn khác nhau 
Độ mặn 
Tỷ lệ (%) theo nhóm khối lượng của cá 
 2.210 mg 
NT1: 5 ‰ 0,00 0,00 100 
NT2: 10 ‰ 0,00 81,6 18,4 
NT3: 15 ‰ 100 0,00 0,00 
Từ số liệu được ghi nhận ở Bảng 7, độ 
mặn của môi trường sống có ảnh hưởng 
rất lớn đến tốc độ tăng trưởng về khối 
lượng của cá. Khối lượng của cá trong các 
nghiệm thức được phân làm 3 nhóm: 
nhóm cá nhỏ có khối lượng dưới 1.840 
mg; nhóm cá trung bình có khối lượng từ 
1.840 mg đến 2.210 mg và nhóm có lớn 
khối lượng trên 2.210 mg. 
Xét nhóm cá lớn có khối lượng trên 
2.210 mg, ở nghiệm thức 5‰ chiếm tỷ lệ 
cao nhất là 100%, kế đến là nghiệm thức 
10‰ chiếm 18,4% và không có sự xuất 
hiện của nhóm cá lớn ở nghiệm thức 15‰. 
Xét nhóm cá nhỏ có khối lượng dưới 
1.840 mg, ở nghiệm thức 15‰ chiếm đến 
100% và không có sự xuất hiện nhóm cá 
này ở 5‰ và 10‰. Điều này được giải 
thích, ở độ mặn từ 5-10‰ cá bống tượng 
không phải mất nhiều năng lượng cho 
điều hòa áp suất thẩm thấu nên cá sẽ tăng 
trưởng nhanh và đều cỡ hơn. Tuy nhiên, ở 
độ mặn 15‰ (NT3), cá phát triển chậm lại 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
107 
nguyên nhân là do cá phải sử dụng năng 
lượng nhiều hơn cho các hoạt động; đặc 
biệt là hoạt động điều hòa áp suất thẩm 
thấu giữa cơ thể cá và môi trường. 
Khối lượng trung bình và hệ số biến 
động (CV) của cá bống tượng sau hai 
tháng ương ở các độ mặn khác nhau được 
ghi nhận ở Bảng 8. 
Bảng 8. Khối lượng trung bình và hệ số biến động (CV) của cá 
Độ mặn Khối lượng trung bình (mg) Hệ số biến động (CV) 
NT1: 5‰ 2.369±8,50a 0,003 
NT2: 10‰ 2.077±12,5b 0,006 
NT3: 15‰ 1.663±13,5c 0,008 
CV: hệ số biến động (tỷ lệ giữa độ lệch và khối lượng cá) 
Khối lượng của cá khi kết thúc thí 
nghiệm (Bảng 8) dao động trong khoảng 
1.663-2.369 mg/con và có sự khác biệt 
thống kê (p<0,05) giữa ba nghiệm thức. 
Cá đạt khối lượng cao nhất ở 5‰ 
(2.369±8,50 mg/con) và thấp nhất ở 
15‰ (1.663±13,5 mg/con). Hệ số biến 
động (CV) ở 5‰ thấp nhất (0,003) và 
cao nhất (0,008) 15‰. Kết quả này 
khẳng định cá ít phân hóa sinh trưởng về 
khối lượng khi ương ở độ mặn hợp lý. 
3.2.4. Ảnh hưởng của độ mặn lên tỷ 
lệ sống của cá 
Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá ở 
ba nghiệm thức khác biệt không có ý 
nghĩa thống kê (p>0,05), đạt từ 95,5% 
(ở 15‰) đến 97,8% (ở 5‰) (Hình 2). 
Riêng nghiệm thức độ mặn 15‰, số 
lượng cá hao hụt nhiều hơn là do ở độ 
mặn này thì áp suất thẩm thấu và ion cơ 
thể cá thấp hơn môi trường nên các ion 
từ môi trường nước bên ngoài xâm nhập 
liên tục vào cơ thể làm cho áp suất thẩm 
thấu và ion bên trong cơ thể cá tăng lên. 
Để thích nghi và tồn tại được cá phải tốn 
nhiều năng lượng cho việc điều hòa áp 
suất thẩm thấu và thải ion ra môi trường 
ngoài. Thời gian đầu cơ thể cá điều hòa 
chưa tốt nên chưa thích nghi được nhưng 
thời gian sau khi thuần độ mặn đến 15‰ 
khoảng một tuần thì cá đã thích nghi và 
không chết. Kết quả này cũng phù hợp 
với kết quả nghiên cứu trên cá sặc rằn 
của Trang Văn Phước (2010), cá được 
ương nuôi ở các độ mặn 0, 5, 7, 9, 11, 
13‰ thì tỷ lệ sống của cá sau 4 tuần 
ương sẽ giảm khi độ mặn tăng. Mặt 
khác, theo Huỳnh Hiếu Lộc (2009), tỷ lệ 
sống của cá bống tượng ở nghiệm thức 
5‰ là cao nhất tiếp đến là nghiệm thức 
độ mặn 10‰. Theo Lê Phú Khởi (2010), 
tỷ lệ sống của cá rô đồng đạt cao nhất 
khi ở độ mặn 3‰ (52,7%) và thấp nhất ở 
15‰ (2,70%). Khi nuôi cá lóc ở các độ 
mặn từ 0-12‰, sau 90 ngày tỷ lệ sống 
của cá đạt 83,8% ở độ mặn 9‰ (Đỗ Thị 
Thanh Hương và Ngô Tú Trinh, 2013). 
Nồng độ muối có ảnh hưởng trực tiếp 
đến quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu 
của tôm cá. Khi nồng độ muối trong môi 
trường sống của thủy sinh vật tăng hay 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
108 
giảm ngoài sự thích ứng của tôm, cá thì 
chúng sẽ bị sốc làm ảnh hưởng đến tỷ lệ 
sống và tăng trưởng của cá, tôm. Điều 
này giải thích ở nghiệm thức 15‰ tỷ lệ 
sống của cá bống tượng có khuynh 
hướng thấp hơn so với các nghiệm thức 
5‰ và 10‰. Như vậy, ở độ mặn 5‰ 
đến 15‰, cá vẫn thích nghi được và có 
tỷ lệ sống rất cao (95,5-97,8%). 
Hình 2. Tỷ lệ sống của cá Bống tượng khi ương ở độ mặn khác nhau 
4. KẾT LUẬN 
Tỷ lệ sống của cá bống tượng không 
thay đổi có ý nghĩa khi ương mật độ 1-3 
con/L nước (94,4-95,6%). Tuy nhiên, 
tăng trưởng của cá đạt cao nhất là ở mật 
độ 1 con/L và thấp nhất ở mật độ 3 
con/L sau 2 tháng thí nghiệm. 
Cá bống tượng sống được trong nước 
ngọt và nước lợ, cá có khả năng sống tốt 
ở độ mặn trong khoảng 5-15‰. Tỷ lệ 
sống của cá không ảnh hưởng có ý 
nghĩa, chỉ có khuynh hướng đạt cao ở độ 
mặn 5‰ và thấp hơn ở 15‰. Tuy nhiên, 
tăng trưởng của cá đạt cao nhất là ở độ 
mặn 5‰ và chậm nhất ở độ mặn 15‰ 
sau 2 tháng thí nghiệm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Dambo W. B. and Rana, K. J., 
1993. Effect of stocking density on 
growth and survival of Oreochromis 
niloticus (L.) fry in the hatchery. 
Aquaculture Research, Volume 24, Issue 
1: Page 71 - 80. 
2. Dương Nhựt Long, 2003. Kỹ thuật 
nuôi cá nước ngọt. Khoa Thủy sản - 
Trường đại học Cần Thơ. 
3. Đỗ Thị Thanh Hương và Ngô Tú 
Trinh, 2013. Ảnh hưởng của độ mặn lên 
điều hòa áp suất thẩm thấu và tăng 
trưởng của cá Lóc (Channa striata). Tạp 
chí Khoa học Trường đại học Cần Thơ. 
Trang 247 - 254. 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
109 
4. El-Sayed, A. F. M., 2002. Effects 
of stocking density and feeding levels on 
growth and feed efficiency of Nile 
tilapia (Oreochromis niloticus) fry. 
Aquaculture Research, Volume 33, Issue 
8. Page 621 - 626. 
5. Gomes, L. C., 2000. Effects of 
stocking density on water quality and 
growth of larvae of the matrinxa, Brycon 
cephalus. Aquaculture, Amsterdam, 
Volume 183. Page 73 - 81. 
6. Huỳnh Hiếu Lộc, 2009. Ảnh hưởng 
của độ mặn khác nhau lên một số chỉ 
tiêu sinh lý, tăng trưởng và tỷ lệ sống cá 
Bống tượng giai đoạn giống. Luận văn 
cao học ngành Nuôi trồng thủy sản. 
Khoa Thủy sản - Trường đại học Cần 
Thơ. 
7. Lê Phú Khởi, 2010. Ảnh hưởng của 
độ mặn, pH đến sự phát triển phôi và cá 
bột rô đồng (Anabas testudineus). Luận 
văn tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng 
thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường đại 
học Cần Thơ. 
8. Lê Quốc Việt, Trần Ngọc Hải và 
Nguyễn Anh Tuấn, 2010. Ảnh hưởng 
của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống 
của cá Đối (Liza subviridis) . Tạp chí 
Khoa học Trường đại học Cần Thơ. 
Trang 205 - 212. 
9. Ngô Sang, Nguyễn Văn Thắng, 
Phan Xuân Tú, Phan Văn Đạt, Hoàng 
Nghĩa Mạnh, 2011. Ảnh hưởng của mật 
độ nuôi lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của 
cá Nâu (Scatophagus argus Linnaeus, 
1766). Trường đại học Nông Lâm Huế. 
10. Refstie, T and Kittelsen, A., 1976. 
Effects of density on growth and 
survival of artificial Atlantic salmon. 
Aquaculture, Amsterdam, Volume 8. 
Page. 319 - 326. 
11. Sampaio, L.A., Ferreira. A.H and 
Tesser. M.B, 2001. Effects of stocking 
density on laboratory rearing of mullet 
fingerlings (Mugil platanus Gunther, 
1980). Acta Scientiarum. Maringa, 
Volume 23. Page 471 - 475. 
12. Tiêu Minh Luân, 2010. Ảnh 
hưởng của thức ăn và mật độ lên tăng 
trưởng và tỷ lệ sống của cá Bống tượng 
(Oxyeleotris marmoratus, Bleeker) giai 
đoạn giống. Luận văn tốt nghiệp cao học 
ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy 
sản - Trường đại học Cần Thơ. 
13. Trang Văn Phước, 2010. Nghiên 
cứu ảnh hưởng của độ mặn khác nhau 
tới sự sinh trưởng và điều hòa áp suất 
thẩm thấu cá sặc rằn (Trichogaster 
pectoralis Regan, 1910). Luận văn tốt 
nghiệp cao học ngành Nuôi trồng thủy 
sản. Khoa Thủy sản - Trường đại học 
Cần Thơ. 
14. Trang Văn Phước, Trương Minh 
Chuẩn và Trần Thị Thu Thủy, 2012. 
Ảnh hưởng của mật độ ương lên tăng 
trưởng và tỷ lệ sống của cá Sặc rằn 
(Trichogaster pectoralis) ương trong 
giai từ cá hương lên cá giống tại Kiên 
Giang. Trang 228 - 235. 
15. Trzebiatowski, R., 1981. Effects 
of stocking density on growth and 
survival of rainbow trout (Salmo 
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số 04 - 2018 
110 
gairdneri). Aquaculture, Amsterdam, 
Volume 22. Page 289 - 295. 
16. Trương Quốc Phú, Nguyễn Lê 
Hoàng Yến và Huỳnh Trường Giang, 
2006. Quản lý chất lượng nước nuôi 
trồng thủy sản. Khoa Thủy sản - Trường 
đại học Cần Thơ. 
EFFECT OF DENSITIES AND SALINITIES ON GROWTH AND 
SURVIVAL RATE OF SAND GOBY FISH (Oxyeleotris marmoratus) 
FINGERLINGS IN 1 TO 3 MONTH-OLD STAGE 
Tran Ngoc Tuyen1 and Nguyen Van Trieu2 
1Faculty of Applied Biology, Tay Do University 
 2Faculty of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University 
(Email: tntuyen@tdu.edu.vn) 
ABSTRACT 
This study was aimed to evaluate the effects of different densities and salinities on the 
growth and survival rate of sand goby fish (Oxyeleotris marmoratus) to provide a basic 
information on culture techniques and contribute to the diversification of fish species for 
brackish water aquaculture in the Mekong Delta. The study included two experiments on (i) 
the effect of stocking densities on growth and survival rate of sand goby fish and (ii) the 
effect of salinities on growth and survival of this species. In the first experiment, fish 
(535±4,19 mg) were stocked at 3 density treatments including 1 fish/L (T1), 2 fish/L (T2) 
and 3 fish/L (T3). Fish was nursed in 35L composite tank system. The results after two 
months showed that survival of fish was fluctuated from 94,4 to 95,6%, significantly 
different (p> 0.05) among treatments. Weight gain of fish was highest in the treatment 1 
fish/L, significantly different (p<0.05) from the other treatments. In the second experiment, 
the fish (575±3,13 mg) was reared with 3 salinity treatments of 5‰ (T1); 10‰ (T2) and 
15‰ (T3). The results after two months indicated that survival rate of fish fluctuated from 
95,5 to 97,8% which was not significantly different among treatments. However, weight 
gain of fish at the salinity of 5‰ and 10‰ were higher than that of fish reared at the 
salinity of 15‰, significantly different. 
Keysword: Density, growth, Oxyeleotris marmoratus, salinity, survival rate. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_va_do_man_len_tang_truong_va_ty_le_song.pdf