Xu hướng phát triển văn hóa trong bối cảnh toàn cầu
Xu hướng toàn cầu hóa xuất hiện vào khoảng năm 1870 – 1913, cho đến nay đã
trở nên phổ biến và ngày càng diễn ra hết sức sôi động trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, kể cả văn hoá. Vấn đề đặt ra là bản sắc văn hóa dân tộc sẽ tồn tại và phát triển theo
xu hướng nào trong thời đại toàn cầu hóa, khi mà thế giới đang trở thành “thế giới
phẳng”, “ngôi nhà toàn cầu”.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Xu hướng phát triển văn hóa trong bối cảnh toàn cầu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng phát triển văn hóa trong bối cảnh toàn cầu
cũng nhận thấy sự cần thiết phải tích hợp các giá trị văn hóa tốt đẹp của các nước tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ: “dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt nhất của nước ngoài: Chính quyền xô viết + trật tự đường sắt phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tờ rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc.etc. ++ = ∑ = Chủ nghĩa xã hội” [5, tr.684]. Tích hợp văn hóa thành công và sử dụng nó làm động lực để phát triển đất nước phải kể đến Nhật Bản. Từ thời xa xưa, mặc dù có những thời kỳ “bế quan tỏa cảng” vì lý do chính trị, nhưng do nguồn tài nguyên thiên nhiên hạn chế, Nhật Bản vẫn có nhu cầu giao thương với lục địa để bổ sung nguồn cung cấp. Theo tinh thần đó, Nhật Bản đã phát triển ngành vận tải biển và mở rộng giao thương với Triều Tiên, Trung Quốc. Thậm chí, ngay từ rất sớm, Nhật Bản đã có ý định biến Triều Tiên – một vùng lãnh thổ gần nhất và yếu nhất trong khu vực – thành một vùng đệm, vừa là để ngăn ngừa sự ảnh hưởng và các nguy cơ xâm lược từ phía các đế quốc Trung Hoa, Mông Cổ, Nga, vừa là để bảo vệ cho các con đường thương mại của mình trên khu vực lục địa Châu Á. Thế là, Nhật Bản đã xâm chiếm Triều Tiên từ thế kỷ IV đến thế kỷ VII, sau đó nó lại nhiều lần xâm chiếm vào thế kỷ XVI, XIX và đầu thế kỷ XX, thiết lập ở đây một sự áp chế quân sự và một mối quan hệ thương mại bán thuộc địa. TẠP CHÍ KHOA HỌC −−− SỐ 7/2016 165 Vào thời Minh Trị (Meiji Tennou, 1868), người Nhật đã hiểu ra: đất nước sẽ không thể phát triển nếu không mở cửa với bên ngoài. Đây cũng là thời điểm giai cấp tư sản Nhật Bản đã lớn mạnh, chính tư tưởng của giai cấp này đã chiến thắng phe bảo thủ và làm thành hậu thuẫn cho chính sách mở cửa của Nhật hoàng Minh Trị. Đây cũng là thời điểm chấm dứt chủ nghĩa biệt lập của Nhật Bản. Lúc này, Nhật Bản đã mở rộng giao lưu với phương Tây để học tập để học tập những truyền thống tốt đẹp của các nền văn hóa phương Tây bằng việc cử phái đoàn đi học tập tại Mỹ và châu Âu. Tác giả Đào Trinh Nhất cho rằng “không có cái hay nào của Tây phương mà Nhật không bắt chước, không có cơ quan chế độ hữu ích nào của Tây phương mà Nhật không làm theo” [9, tr.135]. “Thuở đó, người Nhật xuất dương cầu học ở các nước Âu Mỹ rất nhiều”, họ tiếp nhận một cách sáng tạo như hải quân làm theo của Anh, lục quân lại tổ chức theo kiểu Pháp, điện tín và xe lửa học tập Mỹ... Với ý thức quốc gia mạnh mẽ, lòng tự hào gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc theo kiểu “kỹ thuật phương Tây, đạo lý Nhật Bản” đã làm cho Nhật vượt cả phương Tây, trở thành cường quốc phát triển nhất nhì thế giới. Như vậy, Nhật Bản đã hiện đại hoá theo kiểu phương Tây nhưng trên nền tảng giá trị văn hoá dân tộc. Có thể nói, Nhật Bản là tấm gương cho phát triển văn hoá thời kỳ hội nhập. Mặc dù, còn nhiều điều cần xem xét nhưng sự hội nhập của Nhật Bản vẫn cung cấp được nhiều bài học để chúng ta cùng suy ngẫm. 2.3. Văn hóa Hồ Chí Minh – biểu tượng sự tích hợp văn hóa của Việt Nam Việt Nam là một dân tộc có nhiều khả năng tích hợp và biểu tượng cao nhất của sự tích hợp văn hoá nhân loại trên cơ sở truyền thống văn hoá dân tộc chính là người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (1890 - 1969). Điều đó trước hết là kết quả của một đời không ngừng học tập và thâu thái; thêm nữa, do Người đã luôn biết xuất phát từ bản lĩnh, bản sắc của văn hoá dân tộc để tiếp thu và biến hoá các giá trị văn hóa của nhân loại, làm phong phú vốn văn hoá của mình mà vẫn giữ được tinh thần thuần tuý Việt Nam . Hồ Chí Minh xuất thân từ một gia đình Nho giáo nên Người đã học hỏi ở Nho giáo quan niệm về vai trò quan trọng của giáo dục cải tạo con người. Người có tinh thần nhân ái, từ bi của Phật giáo. Lối sống coi nhẹ hình thức của Lão giáo thể hiện qua cách ăn, mặc, ở. Ở Hồ Chí Minh có dấu ấn của cả Nho - Phật - Đạo. Hồ Chí Minh rất có ý thức về sự tích hợp các nền văn hóa. Người từng viết: “Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam... có tinh thần thuần túy Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ” (Báo Cứu quốc, 1946). 166 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI Trên hành trình đến với văn hoá phương Tây, Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp trước tiên và có lẽ nó cũng để lại những dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng và phong cách văn hoá của Người. Tại Pháp, Người đã tiếp thu lý tưởng nhân quyền, dân quyền và pháp quyền của các nhà Khai sáng Pháp và vận dụng nó vào cuộc đấu tranh, phê phán chế độ thực dân, đòi các quyền ấy cho các dân tộc thuộc địa. Có thể tìm thấy dấu ấn ảnh hưởng các giá trị của nền Cộng hoà Pháp trong bản Yêu sách của nhân dân An Nam , lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946... Lý tưởng Tự do , Bình đẳng , Bác ái của cách mạng Pháp đã hấp dẫn Hồ Chí Minh và thôi thúc Người sang Pháp để tìm hiểu xem những gì ẩn đằng sau những từ ấy. Người đã nhận ra rằng nền Cộng hoà Pháp chủ yếu được xây dựng trên quan điểm giá trị về con người cá nhân, nhất là về quyền tự do, bình đẳng của cá nhân theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp; còn Hồ Chí Minh xuất phát từ vị trí người dân thuộc địa phương Đông, vốn đề cao tinh thần cộng đồng, luôn đặt quốc gia, dân tộc lên trên cá nhân. Với Hồ Chí Minh, Tự do trước hết vẫn là tự do của toàn dân tộc chứ chưa phải là tự do cá nhân; Bình đẳng cũng được Hồ Chí Minh nâng lên thành quyền bình đẳng giữa các dân tộc; còn Bác ái (fraternité) – một khái niệm quá rộng, như lòng bác ái của Chúa đòi hỏi phải “yêu cả kẻ thù của mình”, là điều khó chấp nhận đối với các dân tộc bị áp bức! Hồ Chí Minh hiểu khái niệm này theo đúng nghĩa của nó là tình hữu ái, như tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”, nên Người thường quen gọi những người lao động, các dân tộc bị áp bức là anh em. Tóm lại, Hồ Chí Minh nhận thức Tự do , Bình đẳng , Bác ái qua lăng kính của ngươì dân bị áp bức châu Á chứ không theo tinh thần cách mạng tư sản Pháp. Giá trị lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi suốt đời là: Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu. Điều quan trọng ấy lại không có trong bảng giá trị của nền Cộng hoà Pháp, vì vậy, trong thư kêu gọi những người Pháp hãy cộng tác bình đẳng, thân thiện với Việt Nam để gây dựng hạnh phúc chung cho cả hai dân tộc, Người đã chủ động bổ sung vào khẩu hiệu ấy một từ nữa: “Người Việt và người Pháp cùng tin tưởng vào đạo đức: Tự do - Bình đẳng - Bác ái - Độc lập” [8, tr.458]. Thêm Độc lập để ràng buộc họ: “Nước Pháp muốn độc lập, không có lý gì lại muốn nước Việt Nam không độc lập?”. Như vậy, con đường Hồ Chí Minh tiếp biến các giá trị văn hoá nhân loại là lựa chọn, tích hợp những nhân tố tiến bộ, hợp lý, cải biến nó cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc và nhu cầu đất nước để tạo ra cách làm riêng, không vay mượn nguyên xi một mô hình ngoại lai nào; tức là tiếp thu trên cơ sở phê phán, tiếp nhận gắn liền với đổi mới, theo các tiêu chí: Dân tộc, Dân chủ và Nhân văn. Hồ Chí Minh tiến lên một mức xa hơn là tích hợp các giá trị văn hoá Đông - Tây với tinh hoa của chủ nghĩa Mác - Lênin để giành độc lập dân tộc và xây dựng cuộc sống ấm TẠP CHÍ KHOA HỌC −−− SỐ 7/2016 167 no, hạnh phúc cho dân tộc mình. Hồ Chí Minh đã từng nói với một nhà báo: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê - su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước chúng tôi. Khổng Tử, Giê - su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” [10, tr.172]. Khả năng tích hợp ở Hồ Chí Minh là một đặc điểm rõ rệt mà nhiều báo chí thế giới đã nêu. Tóm lược về sự tích hợp văn hóa ở con người, nhà báo phương Tây đã viết về Hồ Chí Minh rất sâu sắc và tinh tế “ở con người Hồ Chí Minh mỗi người đều thấy hiển hiện của nhân vật cao quý nhất, bình dị nhất và được yêu quý nhất trong gia đình mình... Hình ảnh Hồ Chí Minh đã được hoàn chỉnh với sự kết hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học của C.Mác, thiên tài cách mạng của V.I. Lênin và tình cảm của một người chủ gia tộc, tất cả bao bọc trong một dáng dấp rất tự nhiên” [2, tr.19] Ở Hồ Chí Minh có sự kết tinh truyền thống văn hoá dân tộc Việt Nam và văn hoá nhân loại với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Di sản tinh thần này của Hồ Chí Minh đang là bài học có ý nghĩa thời sự sâu sắc trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, nhất là đối với các nước đang phát triển: trên con đường giao lưu hội nhập, tiếp thu thành tựu văn hóa, khoa học - công nghệ của nhân loại, làm giàu cho mình mà không đánh mất truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. 3. KẾT LUẬN Thế giới mà chúng ta đang sống là một di sản văn hoá đặc biệt, ràng buộc chúng ta với tổ tiên và con cháu chúng ta, phân biệt chúng ta với những thành viên của các nền văn hóa khác. Các dân tộc khác nhau để lại trong văn hóa những đặc điểm văn hoá dân tộc khác nhau. Lịch sử loài người là quá trình trao đổi và giao lưu giữa các nền văn hoá. Sự trao đổi và giao lưu văn hoá đó khiến cho mỗi nền văn hoá, trong quá trình “va chạm” với nhau, trên cơ sở gìn giữ bản sắc văn hoá của mình, đã đồng thời hấp thụ và tham khảo các nền văn hoá khác, thậm chí còn hình thành sự hoà đồng giữa các nền văn hoá khác nhau về chất. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng bản sắc văn hoá mới, phù hợp với nhu cầu phát triển đất nước và đáp ứng được những đòi hỏi của thời đại nhưng không làm mất diện mạo độc đáo của dân tộc là mục tiêu trọng tâm của các quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá. 168 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. David Held, Regulating globalization? The reinvention of politics (Điều tiết toàn cầu hóa? Việc tái tạo của chính trị), 2. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội. 3. James N. Rosneau (2000), “The challenges and tensions of a globalized world” (Những thách thức và sức ép về một thế giới toàn cầu), American Studies International , Vol.38, No.2, June 2000, pp.8-22, 4. Joseph Stiglitz (2008), Toàn cầu hóa và những mặt trái , (Nguyễn Ngọc Toàn dịch) Nxb Trẻ. 5. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 36, Nxb Chính trị Quốc gia. 6. V.I.Lênin (2005), Toàn tập, tập 47, Nxb Chính trị Quốc gia. 7. Manred B. Steger (2011), Toàn cầu hóa (Nguyễn Hải Bằng dịch, Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính) Nxb Tri thức, Hà Nội. 8. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia. 9. Đào Trinh Nhất (2015), Nhật Bản duy tân 30 năm , Nxb Thế giới. 10. Trần Đăng Sinh, Đào Đức Doãn (2007), Tôn giáo học, Nxb Đại học Sư phạm. 11. Tạ Thị Ngọc Thảo, “Cạnh tranh toàn cầu hóa, nhìn lại câu chuyện cây ô liu và chiếc lexus”, 12. Trần Nho Thìn (2015), “Văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Văn hóa học, số 2/2015. 13. Thomas Friedman (2012), Thế giới phẳng , (Nguyễn Quang A, Cao Việt Dũng, Nguyễn Tiên Phong dịch), Nxb Trẻ. 14. Thomas Friedman (2014), Chiếc Lexus và cây ô liu , (Lê Minh dịch), Nxb Tri thức. 15. UNDP (2004), “Human Development Report 2004. Cultural liberty in today’s diverse world” (Báo cáo phát triển con người 2004. Tự do văn hoá trong thế giới đa dạng ngày nay, chương 5), 16. Ngô Thế Phúc (2007), Một số vấn đề văn hóa và phát triển, Nxb Khoa học Xã hội. THE TREND OF CULTURAL DEVELOPMENT IN THE GLOBAL CONTEXT Abstracts: The trends of globalization have appeared in the period 1870 – 1913. Until now, it has become popular and taken place in all aspects of social life, including culture. The question is, how national cultural characteristic survive and develop in the era of globalization, while the world is becoming “flat world”, “world house”. Keywords : cultural globalization, cultural trends, a homogenized culture, integrated cultural. TẠP CHÍ KHOA HỌC −−− SỐ 7/2016 169 THỂ LỆ GỬI BÀI 1. Tạp chí Khoa học là ấn phẩm của Trường ĐH Thủ đô Hà Nội, công bố các công trình nghiên cứu và bài viết tổng quan trong nhiều lĩnh vực khoa học. Tạp chí được xuất bản định kì, mỗi số về một lĩnh vực cụ thể: Khoa học Xã hội và Giáo dục; Khoa học Tự nhiên và Công nghệ. 2. Tác giả có thể gửi toàn văn bản thảo bài báo cho Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập hoặc biên tập viên theo địa chỉ email ghi ở dưới. Tất cả bản thảo bài báo gửi công bố đều được thẩm định về nội dung khoa học bởi các nhà khoa học chuyên ngành có uy tín. Tạp chí không nhận đăng các bài đã công bố trên các ấn phẩm khác và không trả lại bài nếu không được duyệt đăng. 3. Bố cục bài báo cần được viết theo trình tự sau: tóm tắt (nêu ý tưởng và nội dung tóm tắt của bài báo); mở đầu (tổng quan tình hình nghiên cứu, tính thời sự của vấn đề, đặt vấn đề); nội dung (phương pháp, phương tiện, nội dung nghiên cứu đã thực hiện); kết luận (kết quả nghiên cứu, hướng nghiên cứu tiếp theo) và tài liệu tham khảo . Bài báo toàn văn không dài quá 10 trang đánh máy trên khổ giấy A4, phông chữ Times New Roman (Unicode), cỡ chữ (Size) 12 thống nhất cho toàn bài, lề trái 3 cm, lề phải 2 cm, cách trên, cách dưới 2.5 cm, giãn dòng (Multiple) 1.25. Các thuật ngữ khoa học và đơn vị đo lường viết theo quy định hiện hành của Nhà nước; các công thức, hình vẽ cần được viết theo các ký hiệu thông dụng; tên hình vẽ đặt dưới hình, tên bảng, biểu đồ đặt trên bảng. Khuyến khích các bài sử dụng chương trình LaTex với khoa học tự nhiên, công thức hóa học có thể dùng ACD/Chem Sketch hoặc Science Helper for Word. Bài báo phải có tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Tóm tắt viết không quá 10 dòng. Tóm tắt tiếng Việt đặt sau tiêu đề bài báo và tên tác giả, tóm tắt tiếng Anh gồm cả tiêu đề bài báo đặt sau tài liệu tham khảo . Các tên nước ngoài được ghi bằng kí tự Latinh. Cuối bài có ghi rõ cơ quan công tác, số điện thoại, địa chỉ email của tác giả. 4. Phần Tài liệu tham khảo xếp theo thứ tự xuất hiện trong bài báo và sắp xếp theo mẫu dưới đây: 1. John Steinbeck (1994), Chùm nho phẫn nộ (Phạm Thủy Ba dịch, tập 2), Nxb Hội nhà văn, H., tr.181. 2. Bloom, Harold (2005), Bloom’s guides: John Steinbeck’s The Grapes of Wrath, New York: Chelsea House, pp.80-81. 3. W.A Farag, V.H Quintana,. G Lambert-Torres (1998), “A Genetic-Based Neuro-Fuzzy Approach to odelling and Control of Dynamical Systems”, IEEE Transactions on neural Networks Volume : 9 Issue: 5, pp.756-767. Trung tâm Khoa học Công nghệ - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Số 98, Dương Quảng Hàm, Cầu Giấy, Hà Nội Tel: 04.3.767.1409; Fax: 04.3. 833.5426 Email: tapchikhoahoc@daihocthudo.edu.vn
File đính kèm:
- xu_huong_phat_trien_van_hoa_trong_boi_canh_toan_cau.pdf