Xây dựng môi trường tiếng dạy học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự
Xây dựng môi trường tiếng trong dạy học ngoại ngữ hiện nay là một đòi hỏi tất yếu của xã hội hiện
đại, phù hợp với yêu cầu giảng dạy ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp và hành động. Trên cơ sở
đánh giá khái quát thực trạng môi trường dạy học tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự, chỉ ra
những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu, bài báo tập trung đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng
môi trường tiếng phù hợp với đối tượng học ngoại ngữ 2, góp phần nâng cao chất lượng dạy học tiếng
Pháp, đáp ứng nhiệm vụ giáo dục, đào tạo ngày càng phát triển của Học viện.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng môi trường tiếng dạy học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng môi trường tiếng dạy học ngoại ngữ 2 tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự
ngôn ngữ cử chỉ, ngữ điệu trong biểu đạt cảm xúc, hiểu biết về văn hóa Pháp còn hạn chế. 46 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY Những tồn tại trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Từ quan sát, kinh nghiệm, trao đổi với đồng nghiệp và học viên, chúng tôi rút ra một số nguyên nhân chủ yếu sau: Nguyên nhân khách quan: Địa bàn đóng quân của Học viện xa trung tâm; chế độ quản lý học viên tại đơn vị và quy định của ngành đối với cán bộ, giảng viên, học viên khi tiếp xúc với người nước ngoài; Tiếng Pháp là môn ngoại ngữ 2, thời lượng giảng dạy hạn chế; Chương trình môn học, giáo trình, tài liệu còn một số điểm chưa phù hợp, cần đổi mới. Nguyên nhân chủ quan: Một bộ phận học viên ý thức học tập chưa cao, chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn, phương pháp học tập chưa phù hợp, chất lượng tự học chưa cao; Một số giảng viên chưa thực sự quan tâm đến việc xây dựng môi trường tiếng cho người học; giảng dạy có lúc còn nặng về giảng giải, ngữ pháp, chưa đa dạng hóa các hoạt động trong giờ giảng; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy còn hạn chế; kiểm tra, đánh giá có lúc chưa thường xuyên, chưa kịp thời, hình thức còn đơn điệu; chưa quan tâm đến việc bố trí không gian phù hợp với lớp học ngoại ngữ; Khoa, Tổ bộ môn chưa thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giao lưu, sân chơi ngôn ngữ-văn hóa cho học viên. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔI TRƯỜNG TIẾNG DẠY HỌC TIẾNG PHÁP TẠI HỌC VIỆN KHOA HỌC QUÂN SỰ 3.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dạy và người học Để xây dựng môi trường dạy học tiếng Pháp tích cực, trước tiên, giảng viên phải nhận thức đúng đắn về vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tạo môi trường tiếng; thống nhất về quan điểm dạy học ngoại ngữ, về sự cần thiết và tính khả thi của việc xây dựng môi trường tiếng cho đối tượng học ngoại ngữ 2. Cùng với đó, cần phối hợp chặt chẽ với hệ quản lý học viên tiến hành giáo dục, xây dựng cho học viên động cơ học tập đúng đắn. Nhiệm vụ của giảng viên là phải khơi dậy ở người học động lực hay lý do chính đáng xuất phát từ mong muốn, nhu cầu bên trong của bản thân trong quá trình học tiếng Pháp: Yêu thích và có nhu cầu tìm hiểu về văn hóa Pháp (kiến trúc, ẩm thực, thời trang, âm nhạc); có ý định đi du lịch, du học ở một quốc gia có sử dụng tiếng Pháp; sử dụng tiếng Pháp như một công cụ hỗ trợ cho việc học tập ngoại ngữ chuyên ngành ở đại học hoặc làm ngoại ngữ 2 để tiếp tục theo học đào tạo sau đại học ngoại ngữ chuyên ngành. Muốn vậy, giảng viên phải gần gũi trao đổi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của học Bảng 1. Tổng kết điểm kiểm tra học phần môn tiếng Pháp (học kỳ II năm học 2015-2016) Nghe Nói Đọc Viết TBC Không đạt 7/161 (4,4%) 6/161 (3,7%) 3/161 (1,9%) 7/161 (4,4%) 3/161 (1,9%) Đạt 97/161 (60,2%) 20/161 (12,4%) 43/161 (26,8%) 37/161 (22,9%) 49/161 (30,4%) Khá 40/161 (24,9%) 65/161 (40,4%) 70/161 (43,4%) 72/161 (44,7%) 84/161 (52,2%) Giỏi, XS 17/161 (10,5%) 70/161 (43,4%) 45/161 (27,9%) 45/161 (28%) 25/161 (15,5%) 47KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v viên để có định hướng về động cơ học tập đúng đắn cho các em. Quá trình giảng dạy, cần quan tâm đến nhu cầu, sở thích của người học, dạy những cái họ cần, họ quan tâm, dạy kiến thức và kỹ năng giúp ích cho họ trong quá trình học tập và công tác sau này. Quan niệm này cũng ảnh hưởng đến phương pháp và nội dung giảng dạy của giảng viên: không nên nặng về kiến thức ngôn ngữ mà có thể lồng ghép dạy kiến thức văn hóa hay các kỹ năng mềm khác hữu ích hơn với người học. Giảng viên cần hướng dẫn cho học viên tự phát hiện ra cái mới, cách giải quyết sáng tạo nhiệm vụ học tập, dần dần làm phát sinh nhu cầu của người học về tri thức khoa học, nhu cầu giải quyết các vấn đề trong học tập, ứng dụng trong cuộc sống. Qua đó, học tập biến thành động cơ thúc đẩy các em tìm thấy niềm vui và vượt qua các khó khăn trong học tập. 3.2. Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá Người dạy và người học là hai mắt xích quan trọng nhất trong quá trình dạy học. Phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá giữ vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ nói chung và cải thiện môi trường tiếng dạy học ngoại ngữ nói riêng. 3.2.1. Đổi mới phương pháp dạy học Xây dựng và cải thiện môi trường tiếng dạy học tiếng Pháp tại Học viện Khoa học Quân sự trước hết phải được thực hiện bằng việc đổi mới phương pháp dạy học của thầy và trò theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học; phù hợp với đặc thù môn học, nội dung bài học, đối tượng người học. Trong giờ học chính khóa Một là: Sử dụng linh hoạt các phương pháp, phương tiện giảng dạy. Mỗi phương pháp giảng dạy đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Căn cứ vào mục tiêu, nội dung bài học, thời gian lên lớp và đối tượng người học, giảng viên cần lựa chọn và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp giảng dạy. Điều này rất quan trọng vì đặc thù của môn học theo giáo trình Initial là dạy tiếng Pháp tổng hợp bao gồm dạy kỹ năng nghe, kỹ năng nói, ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng thông qua tình huống nghe. Như vậy, khi dạy từ vựng hoặc tình huống nghe, giáo viên có thể sử dụng phương pháp nghe-nhìn, nghe-nói, kết hợp dùng clip, tranh ảnh, ngôn ngữ cử chỉ nhưng khi giảng các vấn đề ngữ pháp, nên sử dụng phương pháp diễn giảng tích cực (khác với thuyết trình truyền thống) để người học quan sát, tự phát hiện và rút ra các quy luật ngữ pháp, sau đó hướng dẫn người học bổ sung, hệ thống hóa kiến thức. Đối với nội dung luyện tập, đóng vai theo tình huống tương tự, giảng viên có thể nêu tình huống, hướng dẫn học viên giải quyết tình huống bằng cách xác định mục tiêu giao tiếp (objectifs de communication), hành vi ngôn ngữ (actes de parole), thực hiện các nhiệm vụ (tâches à réaliser) thông qua tương tác, trao đổi với bạn học cùng lớp, làm việc theo cặp, nhóm. Theo đường hướng giao tiếp và hành động, giảng viên chỉ đóng vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều phối các hoạt động, đưa ra ý kiến đánh giá, phản hồi. Để hoàn thành các mục tiêu giao tiếp, giảng viên cần khêu gợi, động viên học viên, không nên can thiệp chữa lỗi ngay khi người học mắc lỗi, tạo cho các em sự tự tin, thoải mái khi giao tiếp bằng tiếng Pháp. Dù là dạy ngoại ngữ 2 song giảng viên không nên sử dụng tiếng Việt quá nhiều trong giờ giảng mà chỉ khi cần thiết mới dùng. Kết hợp các phương tiện giảng dạy, vận dụng linh hoạt kiến thức ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, giáo án điện tử, tranh, ảnh, những mẩu chuyện vui hay những bài hát tiếng Pháp để giảng dạy cho người học, đặt các em vào môi trường tiếng, luôn phải động não, sáng tạo và thực hành tiếng Pháp. Hai là: Đa dạng hóa các hoạt động trong giờ học. Song song với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp, phương tiện giảng dạy, giảng viên cần lồng ghép, đa dạng hóa các hoạt động trong giờ học, sử dụng các trò chơi ngôn ngữ-văn hóa, thậm chí là vận động cơ thể để đảm bảo phát 48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY triển toàn diện cả bốn kỹ năng thực hành tiếng, đồng thời giảm bớt sự mệt mỏi, mất tập trung, duy trì được không khí học tập sôi nổi cho học viên, nhất là các buổi lịch huấn luyện bố trí từ hai cặp tiết trở lên. Tùy vào đối tượng người học, tình hình học tập cụ thể trên lớp và thời lượng cho phép, giáo viên có thể tổ chức các hoạt động, trò chơi ngôn ngữ-văn hóa nhằm củng cố, phát triển kiến thức từ vựng, ngữ pháp, văn hóa, rèn phản xạ, kỹ năng nghe-nói cho học viên, sinh viên. Ví dụ: Tình huống 1 “Métro, boulot, dodo” (Giáo trình Initial 1, Bài 14, tr. 70-71) về một ngày bình thường của người Pháp; thời lượng: 04 tiết, giáo viên có thể áp dụng một trong các hoạt động, trò chơi sau: Thuyết trình (Exposé): Yêu cầu học viên chuẩn bị và kể về một ngày bình thường của mình trước lớp. Kể chuyện theo tranh (Raconter une journée ordinaire à travers les dessins): Thiết kế từ hai đến ba bộ tranh, mỗi bộ từ từ 5 đến 7 tranh về các hoạt động trong ngày, yêu cầu người học vận dụng kiến thức từ vựng, ngữ pháp đã học về cách nói giờ, hoạt động trong ngày để kể lại câu chuyện theo trình tự các bức tranh. Đóng vai theo tình huống tương tự (Jeu de rôle): Hai người bạn gặp nhau tại điểm đón xe buýt, chào, hỏi thăm sức khỏe và trao đổi về cuộc sống thường ngày, kết thúc hội thoại bằng câu: C’est: “Métro, boulot, dodo”! Trò chơi dây chuyền (Jeu de la chaîne): Yêu cầu học viên kể về một ngày làm việc theo lượt tuần tự từng học sinh trong lớp. Giảng viên chỉ định một học sinh đặt câu mở đầu, lần lượt các bạn khác tiếp nối, phát triển theo trình tự thời gian để hoàn thành một câu chuyện logic, hấp dẫn. Ngoài ra, giảng viên cũng có thể khuấy động không khí học tập bằng cách cho học viên chơi một số trò chơi đơn giản, vui nhộn hơn với phương châm “học mà chơi, chơi mà học”. Tả hình, bắt chữ (Description et nomination de l’activité): Giảng viên chọn ra 3 nhóm, mỗi nhóm 2 người. Lần lượt từng nhóm tham gia trò chơi trong vòng 2 phút, thực hiện và giải mã 5 hành động. Một người bốc thăm lần lượt các lá phiếu từ 1 đến 5, dùng cử chỉ, động tác miêu tả một hoạt động trong ngày (thức dậy, đánh răng, rửa mặt, thay quần áo, ăn sáng, uống cà phê, nghe nhạc, đi chợ, học bài, đọc sách, ngủ) được biểu diễn bằng hình ảnh trên lá phiếu. Người còn lại trong nhóm có nhiệm vụ quan sát, đoán và gọi tên hành động đó bằng tiếng Pháp. Sau thời gian thi đấu, đội nào đoán đúng nhiều nhất, nhanh nhất là đội chiến thắng và có quyền yêu cầu thành viên hai đội thua thực hiện một hành động vui nhộn nào đó. Trò chơi ô chữ (Mots croisés): Giáo viên thiết kế các ô chữ, gồm 12 hàng, tương ứng với 12 từ được dấu kín có đặc điểm chung âm cuối là [o] (ví dụ: métro, stylo, vélo, gâteau, boulot, photo, tôt, judo, kimono, zéro, loto, euro). Ứng với mỗi hàng là lời giải thích, gợi ý để tìm ra từ được dấu trong ô chữ ở hàng đó. Chọn ra 3 đội chơi, mỗi đội 2 đến 3 người, sau khi giảng viên đọc gợi ý, đội nào giơ tay hoặc bấm chuông nhanh nhất sẽ giành được quyền trả lời; trả lời đúng ghi được 1 điểm; trả lời sai hai đội còn lại có quyền giơ tay hoặc bấm chuông giành quyền trả lời, trả lời đúng được 1 điểm. Kết thúc 12 câu hỏi, đội nào tìm được nhiều từ hơn là đội chiến thắng. Những câu chưa trả lời được giành cho các bạn còn lại trong lớp. Giảng viên có thể chuẩn bị những món quà nho nhỏ hoặc tính điểm quá trình cho các đội chiến thắng, tạo thêm hứng thú và động lực học tập cho các em. Ba là: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Công nghệ thông tin đã và đang góp phần giúp người dạy đổi mới phương pháp và hình thức giảng dạy, tạo môi trường học mang tính tương tác cao. Sử dụng công nghệ thông tin và đa phương tiện cho phép người dạy và người học 49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 07 - 5/2017 PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v tiếp cận nguồn thông tin phong phú, bài giảng trở nên trực quan, sinh động hơn, thu hút sự tập trung, tạo được sự say mê hứng thú của học viên, giúp các em nắm bắt vấn đề nhanh và dễ dàng hơn, nhớ lâu hơn. Giảng viên có thể khai thác công nghệ thông tin phục vụ giảng dạy bằng nhiều hình thức: Thu thập tài liệu, tra cứu thông tin trên các trang mạng; biên soạn giáo án điện tử; sử dụng các chương trình, phần mềm và các trang mạng hỗ trợ giảng dạy. Giảng viên có thể khai thác các phần mềm dạy ngữ âm, ghi âm, luyện nghe-nói giúp người học được tiếp cận với môi trường giao tiếp thực tế nhất. Để hướng dẫn học viên học tập, quản lý kết quả học tập của học viên, đặc biệt là hình thành “cộng đồng Pháp ngữ” thu nhỏ của thầy cô và học trò, giảng viên có thể tạo lập nhóm gồm các học viên và là quản trị viên của nhóm. Để phát huy tối đa vai trò của công nghệ thông tin trong giảng dạy, tạo môi trường tiếng, giảng viên cần thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết và vận dụng thành thạo công nghệ thông tin vào giảng dạy; đồng thời hướng dẫn người học khai thác công nghệ thông tin để học tập, nghiên cứu. Tuy nhiên, giảng viên phải hiểu rõ tính hai mặt của công nghệ thông tin, sàng lọc, kiểm định thông tin, tài liệu trước khi sử dụng; không được lạm dụng công nghệ thông tin; việc khai thác phim, tranh ảnh phải đảm bảo thời lượng phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ. Ngoài giờ học chính khóa Một là: Quản lý, nâng cao chất lượng giờ tự học của học viên. Hoạt động tự học tập, nghiên cứu của học viên bao hàm cả hai công việc: chuẩn bị cho các giờ lên lớp (lý thuyết, seminar, làm việc nhóm, thực hành) và tự học có hướng dẫn (nghiên cứu, đọc tài liệu, hoàn thành các nhiệm vụ học tập, làm bài tập tuần, nhóm, bài tập tháng, bài tập giữa kỳ hoặc cuối kỳ). Mục đích chính của việc tổ chức hình thức dạy học này là rèn luyện cho người học khả năng tự nghiên cứu, học hỏi, phát hiện và giải quyết vấn đề với các nguồn tài liệu được hướng dẫn, tích lũy kinh nghiệm tự học và khẳng định những kiến thức, kỹ năng được triển khai trên lớp. Để nâng cao chất lượng tự học của học viên, giảng viên cần chú ý giao nhiệm vụ hoặc bài tập nhận thức rõ ràng, dễ hiểu và phù hợp với khả năng nhận thức của đa số người học; phải hình thành ý thức, thói quen tự học, rèn luyện kỹ năng tự học, khả năng lập kế hoạch tự học. Hướng dẫn cho học viên phương pháp học hiệu quả đối với từng kỹ năng. Giao bài tập và hướng dẫn học viên thực hiện bài tập ở nhà. Đa dạng hóa các dạng bài tập giúp học viên rèn luyện cá nhân và thực hành theo nhóm. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của học viên, hình thành cho các em ý thức, thói quen tự giác học tập. Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trao đổi với hệ quản lý học viên và giảng viên chủ nhiệm lớp về tình hình học tập, rèn luyện của học viên, của tập thể lớp, kịp thời đề ra biện pháp phù hợp. Giảng viên nên tăng cường sử dụng hình thức này khi học viên đã có vốn kiến thức nhất định, có thể tự lực hoàn thành nhiệm vụ tự học mà không cần sự có mặt trực tiếp của giảng viên. Ngoài ra, việc khuyến khích người học tham gia làm đề tài khoa học (bằng tiếng Việt) về các lĩnh vực ngôn ngữ-văn hóa của Pháp cũng góp phần nâng cao chất lượng tự học tập, nghiên cứu của học viên. Hai là: Tổ chức các hoạt động ngoại khóa, giao lưu, sân chơi ngôn ngữ, văn hóa với quy mô phù hợp. Trên thực tế, các hoạt động ngoại khóa, sân chơi ngôn ngữ-văn hóa luôn là những hoạt động được người học trông đợi và đem lại kết quả khả quan trong việc hình thành môi trường học tập tích cực, hiệu quả. Thông qua các hoạt động, học viên, đặc biệt là học viên quân sự, được hòa nhập vào “cộng đồng Pháp ngữ”, có cơ hội để giao lưu, học hỏi và thực hành tiếng Pháp, tạo được sự hứng thú và động lực thúc đẩy học viên tiến bộ trong học tập.
File đính kèm:
- xay_dung_moi_truong_tieng_day_hoc_ngoai_ngu_2_tieng_phap_tai.pdf