Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ

Theo tác giả, quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm

nhân thọ là quyền và/hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa

của người mua bảo hiểm với người được bảo hiểm gắn liền về

tính mạng, tuổi thọ, sức khỏe và tai nạn con người. Bài viết phân

tích những bất cập trong việc xác định nội hàm quyền lợi có thể

được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ, thời điểm xác lập quyền

lợi có thể được bảo hiểm, đưa ra những kiến nghị thay đổi phù

hợp với yêu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm nước ta.

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 1

Trang 1

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 2

Trang 2

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 3

Trang 3

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 4

Trang 4

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 5

Trang 5

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ trang 6

Trang 6

pdf 6 trang duykhanh 11480
Bạn đang xem tài liệu "Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ

Xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ
với những người 
mà người bị hại phải nuôi dưỡng nếu người 
bị hại còn sống
Theo quy định của khoản 3 Điều 9 
Luật KDBH, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp 
dưỡng phải gắn với đối tượng được bảo 
hiểm. Khoản 1 Điều 31 Luật KDBH quy 
định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm 
con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ 
và tai nạn con người”. Như vậy, có thể hiểu, 
quyền lợi bảo hiểm trong BHNT là quyền 
hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng của 
bên mua bảo hiểm đối với người được bảo 
hiểm phát sinh liên quan đến tuổi thọ, sức 
khỏe hoặc tính mạng của người được bảo 
hiểm. Pháp luật KDBH Việt Nam không 
bảo hiểm cho những yêu tố khác thuộc về 
con người như nghề nghiệp, bộ phận cơ thể 
người, Ví dụ, pháp luật bảo hiểm Việt 
Nam không cho phép một cá nhân mua bảo 
hiểm cho giọng hát của nghề ca sĩ, hoặc đôi 
chân của cầu thủ bóng đá. Người mua bảo 
hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho cầu thủ 
bóng đá với sản phẩm bảo hiểm sức khỏe, 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
50 Số 6(358) T3/2018
sinh kỳ hoặc tử kỳ. Theo đó, cầu thủ bóng 
đá chỉ được bảo hiểm cho tổn thất về sức 
khỏe khi bị gãy chân chứ không được bảo 
hiểm cho tổn thất về thu nhập, chi trả tài 
chính cho cuộc sống khi phải giải nghệ vì 
gãy chân.
Từ những phân tích nêu trên có thể 
đưa ra khái niệm quyền lợi có thể được bảo 
hiểm trong BHNT như sau: Quyền lợi có 
thể được bảo hiểm trong BHNT là quyền và/
hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa 
của người mua bảo hiểm với người được 
bảo hiểm gắn liền về tính mạng, tuổi thọ, 
sức khỏe và tai nạn con người.
2. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bên mua 
bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được 
bảo hiểm tại Việt Nam
 2.1 Quy định của pháp luật về xác 
định người được bảo hiểm
Theo quy định của khoản 2 Điều 31 
Luật KDBH, “Bên mua bảo hiểm chỉ có thể 
mua bảo hiểm cho những người sau đây: a) 
Bản thân bên mua bảo hiểm; b) Vợ, chồng, 
con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm; c) 
Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi 
dưỡng và cấp dưỡng; d) Người khác, nếu 
bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được 
bảo hiểm”. 
Quy định nêu trên cho thấy, người 
được bảo hiểm chỉ cần thỏa mãn một trong 
số các trường hợp a, b, c, d thì bên mua bảo 
hiểm được phép mua bảo hiểm cho họ. Tuy 
nhiên, phân tích nội dung của quy định này 
cho thấy một số bất cập sau đây:
Thứ nhất, quy định tại điểm b và 
điểm c chỉ quy định mối quan hệ hôn nhân, 
huyết thống mà không xem xét nghĩa vụ 
nuôi dưỡng và cấp dưỡng có tồn tại giữa họ 
hay không. Có nghĩa rằng, theo quy định 
của Luật KDBH, nếu quan hệ giữa người 
mua bảo hiểm và người được bảo hiểm là 
bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh chị em ruột thì 
không cần phải chứng minh thêm bất kỳ 
một quyền lợi gì vì đây đương nhiên là lợi 
ích về tinh thần thuộc về quyền lợi được 
bảo hiểm. Còn đối với các quan hệ khác 
ngoài các quan hệ bố, mẹ, vợ, chồng, con, 
anh chị em ruột đã được thừa nhận thì còn 
phải có thêm điều kiện: “người có quan hệ 
nuôi dưỡng, cấp dưỡng”. Bởi vì, theo pháp 
luật hôn nhân và gia đình, những chủ thể 
có quyền/nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng 
không chỉ là bố, mẹ, vợ, chồng, con, anh 
chị em ruột mà còn là ông bà đối với cháu, 
cô, dì, chú, cậu, bác ruột với cháu ruột, vợ 
chồng sau khi ly hôn. Do đó, Điều 31 liệt 
kê các mối quan hệ phát sinh quan hệ nuôi 
dưỡng, cấp dưỡng là chưa đầy đủ theo pháp 
luật hôn nhân và gia đình. 
Thứ hai, theo quy định tại điểm d 
khoản 1 Điều 31 Luật KDBH, mối quan hệ 
giữa bên mua bảo hiểm và người được bảo 
hiểm không được xác lập theo mối quan hệ 
gia đình mà tồn tại theo mối quan hệ quyền 
lợi có thể được bảo hiểm, tức tồn tại mối 
quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Theo đó, 
một cá nhân, tổ chức có thể mua BHNT cho 
bất kỳ cá nhân nào khác nếu chứng minh 
được giữa họ có quyền hoặc nghĩa vụ nuôi 
dưỡng, cấp dưỡng. Ví dụ: A gây tai nạn cho 
B làm phát sinh trách nhiệm cấp dưỡng hàng 
tháng cho B. Như vậy, A có thể mua BHNT 
cho B và ngược lại. Hay việc một cơ sở bảo 
trợ xã hội X có thể mua bảo hiểm cho bất 
kỳ đứa trẻ nào mà họ trực tiếp nuôi dưỡng 
hay không vẫn còn là vấn đề pháp lý chưa 
rõ ràng.
Thứ ba, quyền lợi có thể được bảo 
hiểm chỉ xác lập trên cơ sở quyền/nghĩa vụ 
nuôi dưỡng, cấp dưỡng là chưa bao quát hết 
quyền/nghĩa vụ tài chính giữa các chủ thể. 
Theo đó, giữa các chủ thể còn tồn tại các 
mối quan hệ về tài chính khác cần được bảo 
vệ. Ví dụ, mối quan hệ giữa chủ nợ với con 
nợ (chủ nợ có quyền lợi - sẽ phải gánh chịu 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 6(358) T3/2018
rủi ro - nếu con nợ chết - không được thanh 
toán nợ); mối quan hệ giữa người sử dụng 
lao động với người lao động (người sử dụng 
lao động có quyền lợi - sẽ bị thiệt hại nếu 
người lao động chết hoặc nghỉ việc) 
Thứ tư, xuất phát từ quy định coi mối 
quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng là căn cứ 
xác định có phát sinh quyền lợi có thể được 
bảo hiểm đã giới hạn bên mua bảo hiểm và 
người được bảo hiểm chỉ có thể là cá nhân. 
Điều này làm hạn chế sự phát triển của thị 
trường BHNT do không có sự tham gia của 
các chủ thể là tổ chức với tư cách là bên mua 
bảo hiểm.
Như vậy, pháp luật thực định Việt Nam 
vẫn chưa thống nhất căn cứ xác định quyền 
lợi có thể được bảo hiểm dựa vào mối quan 
hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng hay mối quan hệ 
hôn nhân, huyết thống hay kết hợp cả hai. Vì 
vậy, hợp đồng bảo hiểm có thể bị tuyên bố 
vô hiệu vì không xác định được quyền lợi có 
thể được bảo hiểm. Điều này làm gia tăng 
rủi ro cho người mua bảo hiểm hoặc người 
thụ hưởng, hạn chế sự tham gia BHNT của 
công dân.
2.2 Về thời điểm xác định bên mua 
bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm
Tùy thuộc vào tính chất của hợp đồng 
BHNT nói riêng và bảo hiểm con người nói 
chung mà quyền lợi được bảo hiểm được coi 
là phải xác lập tại thời điểm nào. Theo quy 
định của khoản 1 Điều 22 Luật KDBH, hợp 
đồng bảo hiểm sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu 
tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, 
bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có 
thể được bảo hiểm. Chúng tôi cho rằng, bên 
mua bảo hiểm chỉ được mua bảo hiểm nếu 
chứng minh được quyền lợi có thể được bảo 
3 Xem điểm đ khoản 1 Điều 18 Luật KDBH.
hiểm đang tồn tại tại thời điểm giao kết hợp 
đồng bảo hiểm. Có nghĩa là, nếu bên mua 
bảo hiểm có khả năng dự báo về một quyền 
lợi có thể bị “tổn thất” trong tương lai thì 
họ hoàn toàn có quyền “đầu tư” để hạn chế 
những tổn thất như vậy có thể xảy ra. Ngược 
lại, nếu tại thời điểm xảy ra sự kiện bảo 
hiểm, bên mua bảo hiểm không có quyền lợi 
có thể được bảo hiểm thì coi như dự báo về 
tổn thất là sai. Do đó, bên bảo hiểm không 
phát sinh trách nhiệm bảo hiểm theo hợp 
đồng bảo hiểm. Vì vậy, quy định của pháp 
luật KDBH hiện hành bắt buộc người mua 
bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo 
hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo 
hiểm là không cần thiết, cản trở sự tham gia 
bảo hiểm của người có nhu cầu.
Theo quy định của điểm a khoản 1 
Điều 23 Luật KDBH, hợp đồng bảo hiểm 
sẽ chấm dứt hiệu lực nếu tại thời điểm giao 
kết hợp đồng bảo hiểm bên mua bảo hiểm có 
quyền lợi có thể được bảo hiểm nhưng trong 
quá trình thực hiện, quyền lợi có thể được 
bảo hiểm đã không còn tồn tại. Ví dụ, A mua 
bảo hiểm tử kỳ cho vợ (hợp pháp) của mình 
là B, chỉ định con chung của họ là người thụ 
hưởng. Thời gian đóng phí bảo hiểm là 20 
năm. A đóng phí bảo hiểm được 5 năm thì A 
và B ly hôn. Tại thời điểm bản án lý hôn của 
Tòa án có hiệu lực pháp luật, hợp đồng bảo 
hiểm phải chấm dứt. Như vậy, tại thời điểm 
giao kết, hợp đồng bảo hiểm đã phát sinh 
hiệu lực nhưng bị “cưỡng bức” chấm dứt 
khi quyền lợi có thể được bảo hiểm không 
còn. Để hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu 
lực, người mua bảo hiểm có thể thỏa thuận 
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm cho 
người có quyền lợi có thể được bảo hiểm 
tiếp theo3. Tuy nhiên, pháp luật không quy 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 6(358) T3/2018
định bên mua bảo hiểm phải chuyển nhượng 
hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn bao lâu 
tính từ ngày quyền lợi có thể được bảo hiểm 
không tồn tại. Bởi vì, căn cứ theo điểm a 
khoản 1 Điều 23 Luật KDBH, hợp đồng sẽ 
tự động chấm dứt khi quyền lợi có thể được 
bảo hiểm không còn. Do đó, việc chuyển 
nhượng hợp đồng bảo hiểm cho người có 
quyền lợi có thể được bảo hiểm không còn 
giá trị. Nói cách khác là không có giới hạn 
thời gian tối đa để người mua bảo hiểm phải 
chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, miễn 
sao việc chuyển nhượng hoàn thành trước 
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Chúng tôi cho 
rằng, để bảo đảm quyền lợi của các các bên, 
cần phải quy định một khoản thời hạn tính 
từ khi quyền lợi bảo hiểm không còn, người 
mua bảo hiểm phải chuyển nhượng hợp 
đồng bảo hiểm cho người có quyền lợi có 
thể được bảo hiểm tiếp theo. Nếu hết thời 
hạn chuyển nhượng, người mua bảo hiểm 
không chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 
cho người có quyền lợi có thể được bảo 
hiểm tiếp theo thì hợp đồng bảo hiểm mới 
chấm dứt. 
3. Pháp luật một số nước quy định về 
xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm 
trong bảo hiểm nhân thọ 
Hoa Kỳ là một nhà nước liên bang và 
pháp luật KDBH là lĩnh vực pháp luật tư nên 
việc quy định quyền lợi được bảo hiểm các 
bang có những sự khác nhau nhất định. Tuy 
nhiên, tựu trung lại, luật các bang của Hoa 
Kỳ đều thừa nhận, hai mối quan hệ có thể 
hình thành nên quyền lợi có thể được bảo 
hiểm đó là quan hệ dựa trên yếu tố về tinh 
thần và quan hệ lợi ích tài chính. Cụ thể:
- Có thể mua BHNT cho chính mình 
và những người có mối quan hệ hôn nhân, 
huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Cách tiếp cận 
này giống với quy định của pháp luật Việt 
Nam ở cách xác định quyền lợi có thể được 
bảo hiểm dựa trên mối quan hệ hôn nhân, 
huyết thống và nuôi dưỡng hơn là mối quan 
hệ về quyền hoặc nghĩa vụ tài chính. Chúng 
tôi ủng hộ cách tiếp cận này vì nó thể hiện 
đúng bản chất của quan hệ bảo hiểm. 
- Người mua bảo hiểm và người được 
bảo hiểm có quan hệ tài chính với nhau. 
Cách tiếp cận này loại bỏ quan hệ hôn nhân, 
huyết thống hoặc nuôi dưỡng mà chủ yếu 
nhấn mạnh vào mối quan hệ về mặt tài 
chính. Pháp luật Việt Nam hiện hành không 
thừa nhận lợi ích tài chính đơn thuần, không 
phải là bằng chứng chứng minh quyền lợi 
có thể được bảo hiểm tồn tại giữa các bên. 
Chúng tôi cho rằng, nếu coi bảo hiểm con 
người là một hình thức đầu tư tài chính thì 
nên chấp nhận lợi ích tài chính là một yếu tố 
của quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Điều 53 Luật Bảo hiểm sửa đổi, bổ 
sung số 06/QH ngày 21/12/2011 của Lào 
cũng quy định tương đồng với pháp luật Việt 
Nam. Pháp luật của Lào cũng xác định Hợp 
đồng bảo hiểm con người là hợp đồng bảo 
hiểm tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn 
về tuổi thọ. Theo đó, bên mua bảo hiểm có 
thể mua bảo hiểm cho những người sau đây: 
Bản thân người mua bảo hiểm; vợ, chồng, 
con, cha mẹ, anh chị em ruột của người mua 
bảo hiểm; người khác, nếu bên mua bảo hiểm 
có quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Tiểu mục 24.1.18 Luật Bảo hiểm 
Singapore năm 2012 quy định, người mua 
bảo hiểm phải có quyền lợi có thể được bảo 
hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm. Đối 
với loại hình BHNT và sức khỏe, nếu bản 
thân người mua bảo hiểm mua bảo hiểm 
cho chính mình hay vợ chồng mua bảo hiểm 
cho nhau thì không cần phải chứng minh bất 
kỳ lợi ích nào ngoài mối quan hệ giữa họ. 
Trường hợp người mua bảo hiểm mua bảo 
hiểm cho các chủ thể khác thì phải chứng 
minh sự tồn tại quyền lợi có thể được bảo 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 6(358) T3/2018
hiểm giữa người mua bảo hiểm đối với tính 
mạng của người được bảo hiểm4. Cách tiếp 
cận này hẹp hơn so với pháp luật Việt Nam.
4. Kiến nghị xây dựng cơ sở pháp lý xác 
định quyền lợi có thể được bảo hiểm trong 
bảo hiểm nhân thọ 
Thứ nhất, xác định quyền lợi về tinh 
thần. Theo đó, người mua bảo hiểm đương 
nhiên có quyền lợi bảo hiểm đối với người 
được bảo hiểm thông qua mối quan hệ huyết 
thống, hôn nhân và nuôi dưỡng được liệt kê 
cụ thể là cha mẹ với con cái, vợ với chồng, 
anh chị em ruột, ông bà với cháu ruột, cô, dì, 
chú bác ruột với cháu ruột. Ở khía cạnh lợi 
ích tinh thần, bên mua bảo hiểm không có 
nghĩa vụ chứng minh có tồn tại quyền hoặc 
nghĩa vụ nuôi dưỡng trên thực tế hay không. 
Cách tiếp cận này phù hợp với yếu tố đạo 
đức và quan hệ gia đình tại Việt Nam. Bởi 
vì, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa 
những người trong gia đình không phải lúc 
nào cũng tồn tại mà chỉ thực sự cần thiết 
trong những trường hợp rủi ro - tức khi có 
sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Thứ hai, về mối quan hệ tài chính (vật 
chất). Theo đó, người mua bảo hiểm có thể 
mua bảo hiểm cho bất kỳ chủ thể nào nếu 
chứng minh được có tồn tại mối quan hệ 
giữa người mua bảo hiểm với người được 
bảo hiểm. Ví dụ: Quyền lợi có thể được bảo 
hiểm từ lợi ích kinh tế tồn tại giữa các đối 
tác kinh doanh, giữa người sử dụng lao động 
và người lao động, giữa chủ nợ và con nợ 
Ở cách tiếp cận này, bên mua bảo hiểm phải 
chứng minh được mối quan hệ về tài chính 
tồn tại tại thời điểm giao kết hợp đồng và 
trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. 
Dưới góc độ lý luận, bản chất của quan hệ 
bảo hiểm, xuất phát từ mục đích của người 
mua bảo hiểm khi tham gia quan hệ bảo 
4 Xem phần Life and Non-life insurance Mục 24.1.5, Luật Bảo hiểm Singapore năm 2012. 
hiểm thì quyền lợi được bảo hiểm là lợi ích 
tài chính. Như vậy, nếu người mua bảo hiểm 
muốn mua bảo hiểm cho những người không 
có quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng thì quan 
hệ giữa người mua bảo hiểm và người được 
bảo hiểm chỉ có thể hình thành quan hệ tài 
chính. Do đó, pháp luật thực định cần bãi bỏ 
khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm 
quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật KDBH. 
Theo đó, tùy thuộc vào từng loại hình bảo 
hiểm sẽ thiết kế khái niệm quyền lợi có thể 
được bảo hiểm tương ứng cho phù hợp. Cụ 
thể, đối với bảo hiểm con người, khái niệm 
quyền lợi có thể được bảo hiểm được xây 
dựng theo hướng liệt kê những người có mối 
quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng 
và ở trường hợp cuối cùng khẳng định là 
“người khác, nếu bên mua bảo hiểm có 
quyền hoặc nghĩa vụ về tài chính”.
Thứ ba, cần loại bỏ quy định tại điểm 
a khoản 1 Điều 22 Luật KDBH về hợp đồng 
bảo hiểm vô hiệu khi người mua bảo hiểm 
không có quyền lợi có thể được bảo hiểm tại 
thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo 
đó, người mua bảo hiểm chỉ cần có quyền 
lợi có thể được bảo hiểm tại thời điểm xảy 
ra sự kiện bảo hiểm. Cách tiếp cận này phù 
hợp với bản chất của BHNT có thời gian 
đóng bảo hiểm rất dài, khả năng hình thành, 
thay đổi, chấm dứt quyền lợi có thể được 
bảo hiểm là rất cao.
Thứ tư, pháp luật KDBH cần ấn định 
thời hạn tối đa tính từ ngày người mua bảo 
hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo 
hiểm, người mua bảo hiểm phải chuyển 
nhượng quyền lợi có thể được bảo hiểm cho 
người có quyền lợi có thể được bảo hiểm tiếp 
theo. Điều này hạn chế những tranh chấp khi 
có sự thay đổi quyền lợi có thể được bảo 
hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 6(358) T3/2018

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_quyen_loi_co_the_duoc_bao_hiem_trong_bao_hiem_nhan.pdf