Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm

Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong bảo hiểm giai đoạn tiền hợp đồng đối với bên mua bảo hiểm

và doanh nghiệp bảo hiểm là một trong những yếu tố nền tảng để hình thành việc giao kết hợp

đồng bảo hiểm (HĐBH). Trong giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm, đối với doanh nghiệp bảo hiểm

(DNBH), họ chủ yếu dựa vào những thông tin được cung cấp bởi bên mua bảo hiểm (BMBH) để

đánh giá mức độ và tần suất rủi ro của đối tượng được bảo hiểm, từ đó DNBH quyết định có chấp

nhận giao kết hợp đồng bảo hiểm với BMBH hay không. Trong khi đó, ở giai đoạn tiền hợp đồng

bảo hiểm, BMBH cũng cần được DNBH cung cấp hợp đồng bảo hiểm, và giải thích các nội dung

cơ bản HĐBH, các điều khoản cơ bản của HĐBH do DNBH soạn thảo, đặc biệt các điều khoản loại

trừ trách nhiệm bảo hiểm của DNBH, từ đó BMBH xem xét có chấp nhận giao kết HĐBH hay không.

Trong bài viết tác giả phân tích cơ sở lý luận về việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin trong

giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm xuất phát từ nguyên tắc trung thực, thiện chí của các bên ở giai

đoạn tiền hợp đồng, và dựa vào bản chất của tình trạng bất cân xứng thông tin giai đoạn tiền hợp

đồng bảo hiểm và việc đánh giá rủi ro trong kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời, bài viết cũng trình

bày quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin giai

đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm tại Việt Nam.

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 1

Trang 1

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 2

Trang 2

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 3

Trang 3

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 4

Trang 4

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 5

Trang 5

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 6

Trang 6

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 7

Trang 7

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 8

Trang 8

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 9

Trang 9

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm trang 10

Trang 10

pdf 10 trang duykhanh 15980
Bạn đang xem tài liệu "Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm

Cơ sở lý luận hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin giai đoạn tiền hợp đồng bảo hiểm
có nghĩa vụ thông báo những trường hợp có thể làm
tăng thêm rủi ro hoặc làmphát sinh thêm trách nhiệm
của DNBH [ 15, Điểm c, khoản 2, Điều 18]. Trường
hợp trong giai đoạn thực hiện hợp đồng, BMBH phát
sinh những trường hợp có thể làm tăng thêm rủi ro
cho bên bán bảo hiểm như phát sinh thêm bệnh lý
hoặc tuổi thay đổi mà không thông báo thì bên bán
có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng
và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ [ 15, Điểm
b, khoản 2, Điều 19]. Trên thực tế, tâm lý người mua
bảo hiểm đôi khi phát hiện thêm bệnh lý thì thường
che giấu. BMBH lo ngại nếu thông báo thì số tiền bảo
hiểm sẽ giảm nên đến khi xảy ra sự kiện bảo hiểm,
DNBH mới phát hiện người mua không thực hiện
nghĩa vụ thông báo. Hậu quả dẫn đến BMBH vừa
mang thêm bệnh vừa không được nhận tiền bảo hiểm
khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Ngược lại, trong quá trình thực hiện hợp đồng, khi
có sự thay đổi những yếu tố mà có thể làm giảm phí
bảo hiểm thì BMBH có quyền yêu cầu giảm phí bảo
hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm
[15, Khoản 1, Điều 20]. Việc này vừa giúp cho BMBH
giảm được phí bảo hiểm vừa giúp cho việc giải quyết
khi xảy ra sự kiện bảo hiểm đơn giản hơn. Nếu việc
yêu cầu giảm phí bảo hiểm không được, BMBH sẽ
có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng,
những phải thông báo bằng văn bản cho DNBH.
Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Nghĩa vụ cung cấp thông tin của DNBH luôn tồn tại
trong nhiều loại hợp đồng bảo hiểm như bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tài sản và các
loại bảo hiểm khác. Khi tham gia bảo hiểm, DNBH là
bên hiểu rõ nhất quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng bảo hiểm, do vậy BMBH mặc dù nắm rõ
thông tin về đối tượng được bảo hiểmnhưng về quyền
và nghĩa vụ thì chưa thực sự nắm rõ. Do vậy, nghĩa
vụ cung cấp thông tin của DNBH cũng rất quan trọng
để giúp BMBH nắm rõ được quyền và nghĩa vụ của
mình, từ đó góp phần vào việc thực hiện hợp đồng
bảo hiểm một cách hiệu quả nhất. Theo đó, tại Điều
19 Luật KDBH quy định:
Điều 19. Trách nhiệm cung cấp thông tin
1. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo
hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên
quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện,
điều khoản bảo hiểm cho BMBH;Các bên chịu trách
nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó.
Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật về
thông tin do BMBH cung cấp.
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng đối với DNBH,
đó là DNBH phải thực hiện chức năng giải thích các
điều khoản loại trừ trách nhiệm và các điều khoản
1134
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1128-1137
được đề cập trong hợp đồng bảo hiểm. Cụ thể, tại
khoản 2, Điều 16 và Điều 21 Luật KDBH quy định:
Khoản 2 Điều 16. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm: “Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải
được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh
nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo
hiểm khi giao kết hợp đồng.”
Điều 21. Giải thích hợp đồng bảo hiểm: “Trong trường
hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng
thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho
bên mua bảo hiểm.”
Ngoài ra, trong quá trình phân phối sản phẩm bảo
hiểm, DNBH phải đảm bảo những thông tin quảng
cáo về sản phẩm phải trung thực và không làm cho
BMBH hiểu nhầm. Luật KDBH quy định, DNBH có
trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến
HĐBH, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm
cho BMBH, đồng thời xác định việc cung cấp thông
tin, quảng cáo sai sự thật dẫn đến tổn hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của BMBH là hành vi bị nghiêm cấm.
Để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm,
DNBH phải thông báo cho khách hàng về những vấn
đề sau: (i) thời hạn, kỳ đóng bảo hiểm, phương thức
đóng phí (nếu có); (ii) Tên, địa chỉ liên hệ của cá nhân
hoặc đơn vị trực thuộc củaDNBHchịu trách nhiệm việc
giải quyết khiếu nại, thắc mắc, tranh chấp liên quan
đến việc giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng bảo
hiểm của khách hàng; (iii) Trách nhiệm cung cấp thông
tin đầy đủ, trung thực và chính xác; những thay đổi cần
thông báo ngay choDNBH; (iv) Quyền lợi bảo hiểm của
sản phẩm; các điểm loại trừ trách nhiệm bảo hiểm và
các trường hợp khác phải lưu ý; (v) Việc giao kết các
hợp đồng bảo hiểm bổ trợ kèm theo các HĐBH chính
không phải là điều kiện bắt buộc để duy trì hiệu lực của
HĐBH chính; (vi) Đối với các sản phẩm bảo hiểm có
giá trị hoàn lại, HĐBH nhân thọ phải nêu rõ thời điểm
có giá trị hoàn lại; (vii) DNBHđược quyền khấu trừ các
khoản nợ chưa được hoàn trả trước khi thanh toán giá
trị hoàn lại, trả quyền lợi bảo hiểm theo hợp đồng bảo
hiểm. [16, Khoản 4, Điều 4]
Những yêu cầu bắt buộc công khai một số quyền lợi
và nghĩa vụ của BMBH được pháp luật nhiều quốc
gia ghi nhận. Ví dụ, theo Luật Bảo hiểm Trung Quốc
thì DNBH có nghĩa vụ giải thích các điều khoản hợp
đồng cho người nộp đơn (tức là người đề nghị giao
kết HĐBH) và đảm bảo họ có thể tìm hiểu nội dung
của HĐBH và các trường hợp có liên quan đến người
được bảo hiểm [17, Điều 17]. Hay trong Luật mẫu
về bảo hiểm của Hiệp hội quốc gia Hoa Kỳ về bảo
hiểm - NAIC có quy định về việc DNBH và nhà môi
giới phải có nghĩa vụ cung cấp nhiều nội dung thông
tin liên quan đến HĐBH, ví dụ như thông tin về việc
DNBH có quyền hủy bỏ hợp đồng trong vòng 15 ngày
kể từ ngày giao kết, quy định về số tiền bảo hiểm được
nhận, cũng như việc có thể bị đánh thuế trên những
lợi tức nhận được từ HĐBH18.
Theo Luật KDBH, nghĩa vụ cung cấp thông tin của
DNBH được duy trì trong suốt quá trình thực hiện
hợp đồng bảo hiểm với những nội dung thông tin
tương tự như giai đoạn tiền hợp đồng [ 15, Khoản 1,
Điều 19]. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, việc
phát sinh thêm những thông tin về đối tượng bảo
hiểm hoặc có thể là liên quan đến HĐBH. Do vậy,
DNBH vừa phải cung cấp thông tin cho BMBH vừa
phải tiếp nhận và xử lý những thông tin của BMBH
để cho việc thực hiện hợp đồng được diễn ra tốt nhát,
tránh những tranh chấp phát sinh không đáng có.
Ngoài ra, hằng năm, DNBH phải công bố các thông
tin trong thời hạn 15 ngày đầu mỗi tháng, cụ thể
DNBH, chi nhánh nước ngoài phải công bố các sản
phẩm bảo hiểm được phép triển khai trong tháng
trước liền kề (nếu có) bao gồm: Quy tắc, điều khoản,
biểu phí bảo hiểm, mẫu hồ sơ yêu cầu bảo hiểm và các
tài liệu có liên quan trong quá trình giao kết, thực hiện
hợp đồng bảo hiểm trên Cổng thông tin điện tử của
Bộ Tài chính, Hiệp hội Bảo hiểmViệt Nam vàDNBH,
chi nhánh nước ngoài [16, Khoản 2, Điều 35].
Đi kèm với trách nhiệm cung cấp thông tin của
DNBH là trách nhiệm giữ bí mật thông tin do BMBH
cung cấp. Trong lĩnh vực hợp đồng nói chung, HĐBH
nói riêng, yếu tố bảo mật thông tin luôn đặt lên hàng
đầu. Theo đó, DNBH còn có trách nhiệm giữ bí mật
thông tin do BMBH cung cấp [ 15, Khoản 1, Điều 19].
Những hành vi vi phạm về KDBH, cụ thể tại Khoản 6,
Điều 124 Luật KDBHquy định về các hành vi vi phạm
vềKDBH, trong đó có bao gồmhành vi vi phạmnghĩa
vụ giữ bímật thông tin có liên quan đến hợp đồng bảo
hiểm do BMBH cung cấp. Đây là một quy định nhằm
bảo vệ BMBH, tránh những trường hợp bên bán bảo
hiểm có thể lợi dụng thông tin của khách hàng để trục
lợi, hoặc gây ảnh hưởng đến cuộc sống của bên mua.
Trong BLDS 2015 có quy định: “Việc công khai thông
tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân
phải được người đó đồng ý” [ 1, Điều 38]. Nếu DNBH
mà có hành vi này thì tùy theo mức độ, tính chất mà
có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệmhình sự và nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật [ 10, Khoản 1, Điều 125].
Tuy Luật KDBH quy định DNBH có trách nhiệm giữ
bí mật thông tin mà BMBH cung cấp, nhưng trong
Luật KDBH lại chưa quy định việc nghĩa vụ giữ bímật
thông tin của BMBH, do đó có thể vận dụng khoản 2,
Điều 387 BLDS 2015 để bảo vệ quyền lợi DNBH, cụ
thể trong trường hợpmột bên nhận được thông tin bí
mật của bên kia trong quá trình giao kết hợp đồng thì
có trách nhiệm bảo mật thông tin và không được sử
1135
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(4):1128-1137
dụng thông tin đó cho mục đích riêng của mình hoặc
cho mục đích trái pháp luật.
KẾT LUẬN
Tóm lại, nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn
tiền hợp đồng bảo hiểm là một nghĩa vụ pháp lý quan
trọng, ràng buộc cả DNBH và BMBH ngay cả khi
HĐBH chưa được giao kết. Trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bảnnhưnguyên tắc trung thực thiện chí, và nguyên
tắc tự do ý chí để xác lập HĐBH, việc cung cấp thông
tin của các bên nhằm giúp các bên hiểu biết đầy đủ
về các nội dung cơ bản HĐBH, và giảm tình trạng bất
công bằng do việc sở đắc bất cân xứng thông tin ở giai
đoạn tiền hợp đồng.
Các nhà làm luật Việt Nam đã có những nỗ lực to lớn
để dần hoàn thiện việc luật hóa các quy định pháp luật
có liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
pháp luật bảo hiểm Việt Nam. Nghĩa vụ cung cấp
thông tin không chỉ được quy định cho giai đoạn tiền
hợp đồng, mà còn trong giai đoạn thực hiện HĐBH,
và khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, cũng như nghĩa vụ
bảo mật thông tin đối với những thông tin được cung
cấp.
Việc tìm hiểu về cơ sở lý luận hình thành trách nhiệm
cung cấp thông tin trong quan hệ bảo hiểm làmột việc
cần thiết và quan trọng. Vấn đề nghiên cứu này sẽ
góp phần đặt nền tảng pháp lý cho việc đánh giá mức
độ hoàn thành nghĩa vụ của các bên trong giai đoạn
tiền hợp đồng, liệu các hành vi ở giai đoạn tiền hợp
đồng này không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến tính
hiệu lực của HĐBH về sau như thế nào, cũng như các
các chế tài xử lý tương xứng đối với các trường hợp vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của các bên trong
giai đoạn tiền hợp đồng. Những nội dung nghiên cứu
này sẽ cần được làm sáng rõ dựa trên nền tảng lý luận
của việc hình thành nghĩa vụ cung cấp thông tin trong
giai đoạn tiền hợpđồng và sự phát triển quy địnhpháp
luật về nghĩa vụ này trong pháp luật bảo hiểm Việt
Nam.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS - Bộ luật Dân sự
KDBH - Kinh doanh bảo hiểm
DNBH - Doanh nghiệp bảo hiểm
BMBH - Bên mua bảo hiểm
HĐBH - Hợp đồng bảo hiểm
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo.
ĐÓNGGÓP CỦA TÁC GIẢ
Toàn bộ nội dung bài viết chỉ do tác giả thực hiện.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
kỳ họp thứ 10. Bộ luật Dân sự 2015. 2015;.
2. Sơn LT. Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
NXB Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. 2016;.
3. Novoa R. Culpa in contrahendo: a comparative law study:
Chilean law and the United Nations Convention on contracts
for the international sales of goods (CISG). Arizona Journal of
international and comparative law. 2005;22(3):91.
4. Halson R. Contract law, 2th ed, University of Bristol. 2013;.
5. Gjoni G, Peto Z. An Overview of Good Faith as a Principle of
Contractual Interpretation with Special References to the Al-
banian Law. European Scientific Journal. 2017;13(25). Avail-
able from: https://doi.org/10.19044/esj.2017.v13n25p288.
6. Aarti, Arunachalam. An analysis of the duty to negotiate in
good faith: Precontractual liability and Preliminary agree-
ment, LL.M thesis. University of Georgia School of law. 2002;.
7. Hesselink MW. The concept of good faith towards a European
Civil Code, 4th revised and expanded edition. Wolters Kluwer
Law & Business. 2010;.
8. Coninck BD. Le droit commun de la rupture des négo-
ciations précontractuelles. Le processus de formation du
contrat, Contributions comparatives et interdisciplinaires à
l’harmonisationdudroit européen. Bruylant (Bruxelles). 2002;.
9. Quagliato PB. The duty to negotiate in good faith. Interna-
tional Journal of Law andManagement. 2008;50(5). Available
from: https://doi.org/10.1108/17542430810903896.
10. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI,
kỳ họp thứ 7. Bộ luật Dân sự 2005. 2005;.
11. Dai DV. Một số vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn về
bảo hiểm nhân thọ. Tạp chí Khoa học pháp lý. 2018;07(119).
12. Kessler F. Contracts of Adhesion - Some Thoughts about Free-
dom of Contract. ColumLRev. 1943;p. 629. Available from:
https://doi.org/10.2307/1117230.
13. Gillette, Clayton P. Standard Form Contracts. NYU Law and
Economics Research Paper No.09-18.2009 . 2009;Available
from: https://doi.org/10.2139/ssrn.1374990.
14. Brownsword R, Hird NJ, Howells G. Good faith in Contract:
concept and context. Dartmouth Pub Co. 1999;.
15. Văn phòng Quốc hội. Văn bản hợp nhất (VBHN) Luật Kinh
doanh bảo hiểm 2000, sửa đổi bổ sung 2010, và 2019. 2019;.
16. Bộ Tài Chính. Văn bản hợp nhất (VBHN) 27/VBHN-BTC năm
2019 hợp nhất Thông tư hướng dẫn Nghị định 73/2016/NĐ-
CP hướng dẫn Luật KDBH và Luật KDBH sửa đổi. 2019;.
17. Quốc hội Trung Quốc. Luật bảo hiểm 2009 Trung Quốc. 2009;.
18. Hiệp hội các ủy viên bảo hiểm quốc gia Hoa Kỳ. Đạo luật bảo
hiểm mẫu 1996 của NAIC - Investment Insurance Model Act.
1996;.
1136
Science & Technology Development Journal – Economics - Law and Management, 4(4):1128-1137
Open Access Full Text Article Research Article
Faculty of Law, University of Economics
and Law, VNU-HCM, Vietnam
Correspondence
Bach Thi Nha Nam, Faculty of Law,
University of Economics and Law,
VNU-HCM, Vietnam
Email: nambtn@uel.edu.vn
History
 Received: 17/07/2020 
 Accepted: 10/11/2020 
 Published: 03/12/2020
DOI :10.32508/stdjelm.v4i4.665 
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Legal rationale of forming the duty to provide information in the
pre-contractual insurance contract
Bach Thi Nha Nam*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
The duty to provide information in the pre-contractual period is one of the fundamental factors
to form an insurance contract. In terms of the insurers, they are basically in the reliance of the
informationprovidedby theprospective insureds to assess the frequency and level of risks todecide
to engage in the insurance contract or not. Meanwhile, the insureds need to be provided the
insurance policy and know all the substantial articles of the insurance policy drafted by the insurers
to decide the acceptance of the adhesion contract. In the article, the author analyzes the rationale
of forming theduties toprovide informationby thebothparties at thepre-contractual periodbased
on the good faith principle of the contract parties, the asymmetric information, and the nature of
assessing the risks in the insurance business. Meanwhile, the article also presents the evolution of
the duty to provide information in the pre-contractual period in the insurance contract in Vietnam.
Key words: insurance, good faith, information
Cite this article : Nam B T N. Legal rationale of forming the duty to provide information in the 
pre-contractual insurance contract. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(4):1128-1137.
1137

File đính kèm:

  • pdfco_so_ly_luan_hinh_thanh_nghia_vu_cung_cap_thong_tin_giai_do.pdf