Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam

Pháp luật Việt Nam hiện hành và Công ước Viên của Liên hợp quốc 1980 về Hợp đồng mua bán

hàng hóa quốc tế (CISG 1980) vẫn tồn tại những điểm chưa tương thích về vi phạm cơ bản trong

hợp đồng mua bán hàng hóa. Bài viết tập trung làm rõ những điểm tương đồng và sự khác biệt về

vi phạm cơ bản, từ đó đúc kết những kinh nghiệm cho Việt Nam.

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam trang 1

Trang 1

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam trang 2

Trang 2

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam trang 3

Trang 3

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam trang 4

Trang 4

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam trang 5

Trang 5

pdf 5 trang xuanhieu 4940
Bạn đang xem tài liệu "Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam

Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của CISG 1980 và pháp luật Việt Nam
land (1997), Tòa phúc thẩm Phần Lan, Vụ butter. 
chậm giao hàng (đặc biệt đối với hàng hóa 
theo mùa vụ)7, giao hàng không phù hợp 
nếu người mua không thể sử dụng, bán lại 
hay để sử dụng cho mục đích sản xuất, mục 
đích khác8,; người mua không nhận hàng9, 
không thanh toán tiền hàng10; tài liệu đi kèm 
không có hoặc không phù hợp với hàng hóa 
khiến người mua không thể bán lại hàng11; 
Uy tín kinh doanh bị tổn hại cũng được 
xem là thiệt hại đáng kể, thường liên quan 
đến vi phạm về chất lượng hàng hóa, gây ra 
tổn thất cho người mua về uy tín kinh doanh 
khi người mua bán lại hàng hóa cho khách 
hàng của mình. Tổn thất về uy tín được coi 
là vi phạm cơ bản ngay cả khi người bán 
chỉ ra được rằng hàng hóa được giao không 
phù hợp với hợp đồng vẫn có thể bán được 
trên thực tế và giúp người mua thu được lợi 
nhuận nhưng việc bán đi ảnh hưởng đến uy 
tín của người mua12;
Nguồn truy cập:  
truy cập ngày 12/09/2020
7  Canada (2003), Tòa Công lý tối cao tại Ontario, 
Diversitel Communications Inc. v. Glacier Bay Inc. 
Nguồn truy cập: 
case/1189, truy cập ngày 12/09/2020
8  Spanish (1993), Tòa án quận Ellwangen, Vụ tranh 
chấp về hạt tiêu paprika. Nguồn truy cập: 
unilex.info/cisg/case/145, trích dẫn ngày 10/09/2020. 
USA (1995), Tòa phúc thẩm Liên bang Hoa kỳ, Vụ 
Delchi v. Rotorex. Nguồn truy cập: 
unilex.info/cisg/case/157, trích dẫn ngày 12/09/2020. 
Germany (2007), Tòa phúc thẩm Koblenz, Vụ Shoe. 
Nguồn truy cập; 
case/1380, trích dẫn ngày 12/09/2020.
9  Olof Clausson (1986), “Avoidance in non-payment 
situations and fundamental breach under the 1980 U.N 
Convention on contracts for the international sale of 
goods”, N.Y.L.Sch.J.Int’l & Comp.L, No.6.
10  Vietnam (1996), Tòa án nhân dân tối cao tại Thành 
phố Hồ Chí Minh, Vụ monosodium glutamate. Nguồn 
truy cập:  truy 
cập ngày 12/09/2020. USA (2009), Tòa án bang New 
York, the Report. Nguồn truy cập: 
info/cisg/case/1451, truy cập ngày 12/09/2020
11  China (2006), Trọng tài Kinh tế và Thương mại Quốc tế 
CIETAC, Vụ Fluorite. Nguồn truy cập: 
pace.edu/cases/060200c1.html, truy cập ngày 11/09/2020
12  Germany (1994), Tòa án quận Landshut, Vụ Sport 
clothing. Nguồn truy cập: 
VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA...
134 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
Khả năng khắc phục, sửa chữa vi phạm cũng 
là một trong những dấu hiệu xác định yếu 
tố tổn hại đáng kể theo Điều 25 CISG 1980. 
Nếu vi phạm có thể được sửa chữa nhanh 
chóng và không gây cho người mua trở ngại 
lớn nào thì vi phạm đó có thể được xem xét 
không là vi phạm cơ bản13. Ngược lại, nếu 
bên bị vi phạm không khắc phục được vi 
phạm thì coi như đó là vi phạm cơ bản hợp 
đồng và bên vi phạm có quyền hủy hợp 
đồng14.
(ii) Yếu tố khả năng tiên liệu 
Khái niệm này có thể hiểu là khả năng 
thấy trước hậu quả nghiêm trọng (tổn hại 
đến mức tước đi đáng kể những gì bên bị vi 
phạm có quyền kỳ vọng từ hợp đồng) của 
bên vi phạm đối với hành vi vi phạm. Khả 
năng tiên liệu được quy định tại Điều 25 
CISG 1980 nhằm tránh trường hợp bên bị vi 
phạm hủy hợp đồng khi có tổn hại đáng kể 
xảy ra mà bên vi phạm không thể tiên liệu 
được.15 Điều này có nghĩa rằng, bên vi phạm 
có nghĩa vụ chứng minh họ không thể tiên 
liệu được hậu quả nghiêm trọng khi thực 
hiện hành vi vi phạm hoặc một người có lý 
trí minh mẫn cũng không thể tiên liệu được 
trong hoàn cảnh tương tự.16 
cisg/case/124, trích dẫn ngày10/1/2019
13  France (1995), Tòa phúc thẩm Grenoble, Vụ Marques 
Roque Joachimv. anin Rivière. Nguồn truy cập: http://
www.unilex.info/cisg/case/109, trích dẫn ngày 10/1/2021
14  Germany (1995), Tòa phúc thẩm Oldenburg, Vụ 
tranh chấp Furniture. Nguồn truy cập: 
unilex.info/cisg/case/244, trích dẫn ngày 10/09/2020
15  Maartje Bijl (2009), Fundamental breach in documentary 
sales contracts – The doctrine of strict compliance with the 
underlying sales contract, reproduced with permission 
of 1 European Journal of Commercial Contract Law 
19-28. Nguồn truy cập: https://www.cisg.law.pace.
edu/cisg/biblio/bijl.html, truy cập ngày 06/12/2020. 
Xem thêm: Katrina Winsor (2010), “The Applicability 
of the CISG 1980 to Govern Sales of Commodity Type 
Goods”, Vindobona Journal of International Commercial 
Law and Arbitration, No. 14. Nguồn truy cập: https://
www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/winsor.html, 
truy cập ngày 13/11/2020
16  BABIAK, Andrew (1992), “Defining “Fundamental 
Breach” under the United Nations Convention on 
Khả năng tiên liệu được đánh giá thông 
qua kiến thức, kinh nghiệm chủ quan của 
bên vi phạm đặt trong sự so sánh với người 
có lý trí ở hoàn cảnh tương tự về điều kiện 
thị trường, pháp luật, chính trị, môi trường, 
tập quán...17, hoặc có thể dựa vào hợp đồng, 
hoặc sự thỏa thuận về đặc điểm cụ thể hàng 
hóa, mục đích sử dụng hàng hóa18 Ngoài 
ra, cũng cần lưu ý rằng Điều 25 CISG 1980 
không quy định về thời điểm bên vi phạm 
phải tiên liệu được hậu quả, điều quan trọng 
là vào thời điểm vi phạm hợp đồng, bên vi 
phạm có tiên liệu được hoặc phải tiên liệu 
được tổn hại đáng kể như là hậu quả của 
hành vi vi phạm hợp đồng hay không19. 
1.2. Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy 
định của pháp luật Việt Nam
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam về 
hợp đồng, vấn đề vi phạm cơ bản được quy 
định tại Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 và 
LTM năm 2005 nhưng có sự khác nhau trong 
việc sử dụng thuật ngữ. Cụ thể, BLDS năm 
2015 sử dụng thuật ngữ “vi phạm nghiêm 
trọng”, nghĩa là việc không thực hiện đúng 
nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên 
kia không đạt được mục đích của việc giao 
kết hợp đồng (khoản 2 Điều 423). Trong khi 
đó, LTM năm 2005 lại sử dụng thuật ngữ “vi 
phạm cơ bản”, được giải thích là sự vi phạm 
hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho 
bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt 
được mục đích của việc giao kết hợp đồng 
(khoản 3 Điều 13). Khi áp dụng pháp luật 
cùng một vấn đề, luật chuyên ngành sẽ được 
Contracts for the International Sale of Goods’, Temple 
International Law Journal, tr. 121.
17  Alexander Lorenz (1998), Fundamental breach under 
the CISG. Nguồn truy cập: https://cisgw3.law.pace.
edu/cisg/biblio/lorenz.html, truy cập ngày 06/12/2020
18  Spanish (1993), Tòa án quận Ellwangen, Vụ tranh 
chấp về hạt tiêu paprika. Nguồn truy cập: 
unilex.info/cisg/case/145, trích dẫn ngày 13/11/2020
19  Harry M. Flechtner (1988), “Remedies Under the New 
International Sales Convention: The Perspective from 
Article 2 of the U.C.C.”, Journal of Law and Commerce 
No. 8. Nguồn truy cập: 
cisg/biblio/flecht.html, trích dẫn ngày 27/12/2020
NGUYỄN THỊ KHÁNH - PHẠM VŨ TÚ NAM
135Số Chuyên đề 01 - 2021 Khoa học Kiểm sát
áp dụng20. Do đó, trong phạm vi bài viết, tác 
giả nghiên cứu vi phạm cơ bản hợp đồng 
theo quy định của LTM năm 2005.
Thuật ngữ pháp lý “vi phạm cơ bản” được 
ghi nhận cụ thể tại khoản 13 Điều 3 LTM 
năm 2005 như sau: “Vi phạm cơ bản là sự vi 
phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho 
bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được 
mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Trong đó, 
vi phạm hợp đồng được hiểu là“việc một bên 
không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc 
thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận 
giữa các bên”21. Có thể thấy, yếu tố quan 
trọng và quyết định một vi phạm cơ bản là 
thiệt hại mà ở đó, bên bị vi phạm không đạt 
được mục đích của việc giao kết hợp đồng.
Dù chưa có giải thích hay hướng dẫn cụ 
thể, song việc hiểu một cách thấu đáo khái 
niệm “thiệt hại” đối với hợp đồng mua bán 
hàng hóa dựa vào các quy định có liên quan 
trong hệ thống pháp luật Việt Nam là hoàn 
toàn khả thi. Theo đó, “thiệt hại” được phân 
loại thành 04 nhóm dựa vào các điều 589, 
590, 591, 592 BLDS năm 2015. Trong đó, có 
02 nhóm đặc biệt liên quan đến chế định hợp 
đồng cần xem xét là thiệt hại về tài sản và 
thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. 
Liên quan đến vấn đề xác định thiệt hại, 
Điều 302 LTM năm 2005 cũng nhấn mạnh 
“giá trị thiệt hại” là giá trị “tổn thất thực tế, 
trực tiếp” và “khoản lợi trực tiếp” mà bên bị 
vi phạm phải chịu do hậu quả của hành vi 
vi phạm gây ra. Tuy nhiên, một hành vi vi 
phạm cơ bản hợp đồng cũng có thể là những 
mất mát phi thực tế hoặc tổn thất dự đoán 
(thiệt hại tiên liệu). Những thiệt hại này đều 
có thể được xem là cơ sở để bên bị vi phạm 
áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại đối với 
bên vi phạm hợp đồng. Như vậy, với cách 
quy định như khoản 2 Điều 302, LTM năm 
2005 đã vô hình chung thu hẹp ngoại diên 
20  Khoản 3 Điều 4 BLDS năm 2015. Xem thêm: TS. 
Nguyễn Văn Hiển (2020), Nguyên tắc áp dụng pháp 
luật trong trường hợp các văn bản do cùng một chủ thể 
ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, Tạp 
chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (407).
21  Xem: Khoản 12 Điều 3 LTM năm 2005.
vốn dĩ rất rộng của khái niệm “thiệt hại”.
Đối với yếu tố mục đích giao kết hợp 
đồng, theo khoản 13 Điều 3 LTM năm 2005, 
một vi phạm dù gây ra thiệt hại cho bên bị vi 
phạm nhưng không nghiêm trọng đến mức 
ngăn cản việc đạt được mục đích thực hiện 
của bên bị vi phạm thì không cấu thành một 
vi phạm cơ bản22. Tuy nhiên, việc xác định 
mục đích giao kết hợp đồng cũng không 
phải là điều đơn giản bởi các bên có thể 
hướng tới nhiều mục đích khác nhau nhưng 
lại không được thể hiện rõ trong hợp đồng 
(do pháp luật không yêu cầu)23. Trong khi 
đó, CISG xét đến khả năng rộng hơn so với 
pháp luật Việt Nam khi sử dụng cách diễn 
giải “những gì bên bị vi phạm có quyền kỳ vọng 
từ hợp đồng”, có thể bao gồm mục đích giao 
kết hay lợi ích khác như tổn hại về uy tín.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam không 
đặt ra vấn đề hậu quả của vi phạm phải 
được bên vi phạm tiên liệu được và có sự 
nhìn nhận khách quan từ người thứ ba khi 
đặt họ vào hoàn cảnh tương tự. Bởi lẽ, liên 
quan đến mục đích hợp đồng có đạt được 
hay không, phải xác định từ thời điểm giao 
kết hợp đồng. Vì vậy, khi xem xét vi phạm 
cơ bản chỉ căn cứ vào hợp đồng được ký kết 
để xác định mục đích giao kết hợp đồng. 
Hiển nhiên, các bên phải biết đến mục đích 
này nên không đặt ra việc xem xét ý chí chủ 
quan của bên vi phạm có tiên liệu được hay 
không. Ngược lại, CISG 1980 đặt ra vấn đề 
là bên vi phạm phải tiên liệu được hậu quả 
vi phạm bởi ngay cả khi hợp đồng đã được 
thực hiện xong, nếu một bên thấy “cái mà 
họ có quyền chờ đợi từ hợp đồng” không 
đạt được, họ vẫn có quyền hủy hợp đồng. 
Do đó, để xác định được thiệt hại bên bị vi 
22  Phan Thị Thanh Thủy (2014), “So sánh các quy định về 
trách nhiệm do vi phạm hợp đồng trong Luật Thương mại 
Việt Nam 2005 và Công ước Viên 1980”, Tạp chí Khoa học 
Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, tập 30, số 39.
23  Vũ Thị Hoa (2019), Chế định hủy hợp đồng theo công 
ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và 
kinh nghiệm cho Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài tham 
gia xét giải thường “Sinh viên nghiên cứu khoa học” 
năm 2019, Đề tài đạt giải ba cấp Bộ, tr. 45-47.
VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA...
136 Khoa học Kiểm sát Số Chuyên đề 01 - 2021
phạm đưa ra có thực sự xuất phát từ hợp 
đồng hay không, phải căn cứ vào ý chí của 
bên vi phạm có tiên liệu được hậu quả đó 
hay không. Để sự tiên liệu được khách quan, 
CISG 1980 đưa ra sự kiểm tra rằng trong 
trường hợp đó, đối với một người có lý trí 
minh mẫn cũng phải tiên liệu được nếu họ ở 
hoàn cảnh tương tự.
Như vậy, một cách tổng quát, nội hàm 
khái niệm vi phạm cơ bản của CISG 1980 
rộng và bao quát hơn rất nhiều so với khái 
niệm trong LTM năm 2005 đưa ra. Vì vậy, 
pháp luật Việt Nam quy định vi phạm cơ 
bản chỉ giới hạn trong mục đích giao kết hợp 
đồng thì sẽ không đầy đủ. 
2. Kiến nghị
Qua so sánh và phân tích các quy định 
về vi phạm cơ bản hợp đồng quy định trong 
CISG 1980 và pháp luật Việt Nam, có thể 
thấy, các nhà lập pháp trong nước đã cơ bản 
tiếp cận thuật ngữ pháp lý này theo hướng 
tương tự Công ước Viên 1980. Tuy nhiên, 
như đã phân tích ở trên, nội hàm khái niệm 
vi phạm cơ bản trong LTM Việt Nam năm 
2005 còn hẹp. Vì vậy, cần phải sửa đổi quy 
định về vi phạm cơ bản đầy đủ và có nội 
hàm bao quát hơn. Tác giả cho rằng, pháp 
luật Việt Nam cần quy định vi phạm cơ bản 
theo quy định của CISG 1980. Theo đó, sửa 
đổi khoản 13 Điều 3 LTM năm 2005 như sau: 
“Vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một 
bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho 
bên kia mất cái mà họ có quyền chờ đợi trên cơ sở 
hợp đồng, bên vi phạm phải tiên liệu được hậu 
quả đó một cách khách quan và một người có lý 
trí minh mẫn cũng sẽ tiên liệu được trong hoàn 
cảnh tương tự.”
Bên cạnh đó, cần sự thống nhất giữa văn 
bản pháp luật tại Việt Nam về khái niệm vi 
phạm cơ bản và vi phạm nghiêm trọng, bởi 
nếu căn cứ theo BLDS năm 2015 quy định 
về khái niệm vi phạm nghiêm trọng không 
nhắc đến việc gây thiệt hại cho bên kia24. Quy 
định này không hợp lý bởi dù là tính toán 
thực tế hay là dự đoán trước thì phải có thiệt 
24  Xem: Khoản 2 Điều 423 BLDS năm 2015.
hại. Thiệt hại là một trong những yếu tố cấu 
thành nên vi phạm, nếu cả hai bên không ai 
gây thiệt hại cho ai điều gì thì không có căn 
cứ để xử lý ai đã vi phạm và đưa ra chế tài 
hợp lý. Vì vậy, pháp luật Việt Nam bên cạnh 
việc sửa đổi khái niệm vi phạm cơ bản theo 
CISG 1980 thì cần sửa đổi thống nhất giữa 
các khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng.
Việc thống nhất thuật ngữ theo hướng 
phù hợp với Công ước là cần thiết bởi hiện 
nay cả pháp luật Việt Nam và CISG 1980 đều 
có thể được lựa chọn là luật áp dụng cho 
hợp đồng hoặc giải quyết tranh chấp giữa 
các chủ thể của quan hệ mua bán hợp đồng 
hàng hóa. Nhằm hướng tới thiết lập một 
hành lang pháp lý vững chắc, các quy định 
hiện hành chứa thuật ngữ “vi phạm nghiêm 
trọng hợp đồng” (ví dụ như điểm b khoản 1 
và khoản 2 Điều 423 BLDS năm 2015) nên 
được chỉnh lý theo hướng thay bằng “vi 
phạm cơ bản hợp đồng”. Bởi “vi phạm nghiêm 
trọng” chưa được định nghĩa bởi bất kỳ văn 
bản quy phạm pháp luật nào, trong khi “vi 
phạm cơ bản” hiện không chỉ được định nghĩa 
trong LTM năm 2005 mà còn có thời gian dài 
tồn tại trong nhiều quy định pháp luật (gồm 
cả pháp luật hình sự, pháp luật hành chính). 
Bên cạnh đó, thuật ngữ “cơ bản” đồng nghĩa 
với “fundamental” được sử dụng tại Điều 25 
CISG trong khi “nghiêm trọng” lại tương ứng 
với “serious” trong tiếng Anh nói chung.
Khi pháp luật trong nước và CISG 1980 
có sự khác biệt như trên, các cơ quan tài 
phán (Tòa án nhân dân, Trọng tài thương 
mại quốc tế), các cơ quan hữu quan (Bộ Công 
thương, Bộ Tư pháp) cũng như các doanh 
nghiệp Việt Nam cần nắm được sự khác biệt 
của CISG 1980 và LTM năm 2005 để có thể 
đưa ra các quyết định đúng đắn liên quan 
tới hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Từ 
đó, các nhà làm luật, các cơ quan giải quyết 
tranh chấp và cơ quan chức năng mới giúp 
được các doanh nghiệp nước nhà phát huy 
tối đa những lợi thế của LTM năm 2005 cũng 
như điểm tiến bộ của CISG khi tham gia đời 
sống thương mại quốc tế./.

File đính kèm:

  • pdfvi_pham_co_ban_hop_dong_mua_ban_hang_hoa_theo_quy_dinh_cua_c.pdf