Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa

Tóm tắt: Di sản văn hóa là tài sản vô giá của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc. Việc bảo tồn

và khai thác giá trị của di sản văn hóa trong phát triển du lịch đã được các nước triển khai

một cách có hiệu quả. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, công tác bảo tồn,

phát huy các giá trị của di sản văn hóa là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy

nhiên, chính sách, pháp luật về bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa của nước ta còn nhiều

bất cập. Bài viết phân tích các hạn chế đó dưới góc độ các quy định của pháp luật và đưa ra

một số giải pháp khắc phục.

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 1

Trang 1

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 2

Trang 2

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 3

Trang 3

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 4

Trang 4

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 5

Trang 5

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 6

Trang 6

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 7

Trang 7

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 8

Trang 8

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 9

Trang 9

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa trang 10

Trang 10

pdf 10 trang xuanhieu 2140
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa

Vấn đề hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa
 cập trong chính sách của UNESCO. Theo đó, bản quyền của 
các cộng đồng đã sản sinh và lưu truyền các di sản văn hóa phi vật thể phải được tôn trọng. Ở 
Việt Nam, quyền sở hữu trí tuệ được ghi nhận trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, 
bổ sung năm 2009) nhưng quyền sở hữu đối với di sản văn hóa phi vật thể chưa được đề cập 
một cách đầy đủ và toàn diện. Luật mới chỉ đưa ra quyền tác giả đối với tác phẩm văn học nghệ 
thuật dân gian. Theo quy định tại Điều 23 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 thì tổ chức, cá nhân 
khi sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải dẫn chiếu xuất xứ của loại hình tác phẩm 
đó và đảm bảo giữ gìn giá trị đích thực của tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. 
Vấn đề cần bàn ở đây đó là hầu hết các tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian là sáng 
tạo của một cộng đồng, lúc ấy quyền tác giả sẽ thuộc về cộng đồng nào. Có thể lấy ví dụ với 
dân ca quan họ Bắc Ninh. Chủ nhân dân ca quan họ Bắc Ninh là cộng đồng cư dân người Việt 
cư trú ở hai tỉnh Bắc Ninh và tỉnh Bắc Giang hiện nay. Vùng lưu hành dân ca quan họ Bắc 
Ninh rất rộng không chỉ có hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh mà còn có một số huyện, xã, làng 
của các tỉnh Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hà Nội. Việc người 
dân và các nhà quản lí gọi dân ca quan họ Bắc Ninh mà không dùng danh xưng dân ca quan 
họ Hà Bắc hay dân ca quan họ Bắc Ninh - Bắc Giang bởi lẽ trong tâm thức người dân danh 
xưng dân ca quan họ Bắc Ninh luôn tồn tại như một sự thực khách quan. Như vậy, địa danh 
Bắc Ninh trong dân ca quan họ Bắc Ninh không phải chỉ chủ thể sở hữu dân ca quan họ là 
tỉnh Bắc Ninh như một số người vẫn hiểu. Vấn đề quyền sở hữu tác giả lúc này sẽ khó biết 
được sẽ trao cho cộng đồng nào. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, không chỉ có ý nghĩa 
về mặt tinh thần, mà còn có giá trị quảng bá du lịch, đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương 
được trao quyền sở hữu trí tuệ của di sản đó. Đồng thời, quyền sở hữu tác giả là một quyền 
quan trọng để tránh việc sử dụng di sản vào mục đích xấu và góp phần nâng cao ý thức gìn 
giữ, phát huy giá trị di sản của cộng đồng. 
Thứ ba, thiếu quy định chi tiết xác định những yếu tố không phù hợp làm giảm giá trị 
của di sản văn hóa phi vật thể. Ví dụ, Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của 
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ 
sung một số điều của Luật Di sản văn hóacó chỉ ra những hành vi được coi là gây nguy cơ 
hủy hoại và làm giảm giá trị di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có “tùy tiện đưa những yếu tố 
không phù hợp làm giảm giá trị di sản” (Khoản 2 điều 4). Yếu tố “không phù hợp” ở đây 
mang tính “định tính” rất cao, cần có một hội đồng cụ thể đánh giá khách quan. Tuy nhiên, 
Nghị định này không quy định chủ thể nào sẽ có thẩm quyền đánh giá hành vi đó làm giảm 
giá trị của di sản? Đây là một vấn đề khá nhạy cảm, bởi cộng đồng là chủ thể có quyền quyết 
định đến sự tồn tại, thay đổi của di sản văn hóa phi vật thể. Cơ quan quản lý khó có thể can 
thiệp dựa trên sự đánh giá của chính họ về việc các yếu tố đã làm giảm giá trị di sản văn hóa 
phi vật thể. Trường hợp quy định cộng đồng dân cư là chủ thể có quyền quyết định thì ai sẽ là 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
77 
người đại diện có quyền quyết định, quy trình chọn người đại diện và lấy ý kiến như thế 
nào?... Tất cả những điều này chưa được quy định trong pháp luật di sản văn hóa. 
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa hướng đến mục tiêu 
phát triển du lịch 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” - văn hóa có 
tác động to lớn đến phát triển kinh tế đất nước. Trong các yếu tố cấu thành của nền văn hóa, 
các di sản văn hóa là yếu tố cốt lõi, chứa đựng các giá trị tinh thần một cách bao trùm và rõ 
nét nhất. Đặc biệt, khi mà di sản có tác động lớn đến phát triển bền vững du lịch, nhà nước 
cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật trên cơ sở những bất cập nêu 
trên, nhằm phát huy tối đa giá trị của di sản, từ đó phục vụ tối đa cho phát triển du lịch một 
cách bền vững nhất. 
Về phương hướng hoàn thiện chung, các quy định của pháp luật về di sản văn hóa cần 
thể chế hóa đúng quan điểm của Đảng, tiêu biểu là Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền 
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Theo đó “Di sản văn hóa là tài sản vô 
giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị 
mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa 
truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật 
thể”. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu 
phát triển bền vững đất nước cũng đề ra phương hướng: “Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp 
lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn 
tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế 
gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số 
loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO 
công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam”. 
Trên cơ sở quan điểm định hướng của Đảng và những bất cập thực tế nêu trên, Nhà 
nước cần tiến hành một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa cụ thể như sau: 
Thứ nhất, ngoài các quy định về bảo tồn di sản đã được xếp hạng, cần bổ sung các quy 
định về tu bổ di sản, phục hồi di sản. Luật Di sản văn hóa cần được gấp rút bổ sung các điều 
khoản sâu rộng hơn để tạo nền tảng pháp lý cho ba loại ứng xử với di sản như trên, không 
theo hướng “bảo tàng hóa” toàn bộ số lượng di sản, mà chỉ bảo tồn nguyên trạng một số di 
tích tiêu biểu nhất, còn lại thì phải hướng dẫn việc cải tạo và mở rộng số lượng lớn các thể 
loại di sản khác, nghĩa là cần quy định rõ phần nào phải giữ lại, phần nào có thể cho phép cải 
tạo theo quy định hướng dẫn để đưa vào phục vụ đời sống văn hóa và phát triển du lịch. Đồng 
thời, cần bổ sung các nghĩa vụ pháp lý để các nhà quản lý không thể lấy lý do hành chính 
(chậm làm thủ tục, chưa được đưa vào danh sách di tích) để bỏ qua trách nhiệm bảo tồn các 
công trình di sản chưa được xếp hạng. 
 Thứ hai, chi tiết hóa các quy định về thủ tục tu bổ di tích, nhất là những di tích là khu 
vực dân sinh (như phố cổ Hội An, phố cổ Hà Nội, làng cổ Đường Lâm...). Rõ ràng, chỉ chú ý 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
78 
bảo tồn đơn thuần di sản thì không thể phát triển, mà đưa phát triển vào thì dễ dẫn tới việc 
giảm giá trị bảo tồn của di tích. Bài toán này chưa bao giờ dễ, đối với mỗi di sản khác nhau 
cần những lời giải khác nhau, rất khó để đưa ra quy định chung. Do đó, với những di tích là 
khu vực dân sinh, pháp luật cần có quy định đặc thù, cho phép ban quản lý dự án ban hành 
một quy chế riêng về các yếu tố, hạng mục được phép và không được phép tu bổ. Quy chế 
này cần có sự thỏa thuận với đại diện các hộ dân và sự phê duyệt của cơ quan quản lý nhà 
nước có thẩm quyền cấp trên. Đây là một giải pháp mở, một mặt vừa đảm bảo tính nguyên tắc 
chung trong quản lý nhà nước, mặt khác thể hiện tính linh hoạt trong quản lý di sản. Trường 
hợp không cho phép tu bổ (ví dụ không được cơi nới thêm nhà ở), nhà nước cần có chính sách 
hỗ trợ tái định cư thỏa đáng để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân khi nhân khẩu tăng 
lên. Cùng với đó, cần điều chỉnh Luật Đầu tư công (trong đó quy định dự án tại địa bàn có di 
tích quốc gia đặc biệt đều thuộc dự án nhóm A) để giảm bớt thủ tục phiền hà không cần thiết. 
Chẳng hạn, có những công trình thuộc di tích quốc gia đặc biệt có quy mô chỉ vài mét vuông 
xây dựng (như nhà bia, phương đình) mà vẫn coi là dự án nhóm A, kéo theo thời gian xét 
duyệt rất dài, dẫn đến nguy cơ phá hủy di tích do không được tu bổ kịp thời. 
 Thứ ba, cần đồng bộ hóa các văn bản luật (như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Dân 
sự...) về nghĩa vụ bảo tồn di tích, trách nhiệm pháp lý khi vi phạm. Đồng thời, cần tăng thẩm 
quyền xử phạt hành chính cho ban quản lý di tích về những vi phạm trong bảo tồn di sản. 
Trường hợp đối tượng vi phạm không chấp hành, ban quản lý dự án mới cần báo cáo lên cơ 
quan quản lý nhà nước cấp trên để tiếp tục xử lý. Song hành với việc sửa đổi, bổ sung quy 
định pháp luật, cần tuyên truyền để nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật và trách nhiệm giám 
sát cộng đồng của người dân đối với chính hoạt động của ban quản lý di tích. Các trung tâm 
nghiên cứu, các đề án bảo tồn, phục dựng di sản văn hóa được đẩy mạnh triển khai ở nhiều 
địa phương với sự đầu tư nhân lực, vật lực vô cùng to lớn. 
Thứ tư, bổ sung các quy định chi tiết để “định lượng” các yếu tố xác định “di sản văn 
hóa phi vật thể” như: đã được lưu truyền trong khoản thời gian bao lâu, giới hạn của sự “tái 
tạo” sản phẩm tinh thần đó (đôi khi sự tái tạo có thể dẫn đến một loại hình tinh thần khác, ví 
dụ như loại hình cải lương có nguồn gốc hình thành dựa trên đờn ca tài tử và dân ca Nam bộ), 
“các hình thức biểu diễn khác” ở đây là gì?... Cùng với đó, cần ban hành các quy định xác 
định quyền sở hữu trí tuệ đối với di sản văn hóa phi vật thể và chủ thể có thẩm quyền xác định 
“yếu tố không phù hợp làm giảm giá trị di sản” trong quá trình tái tạo di sản. Tiêu chí xác 
định chủ thể có quyền sở hữu trí tuệ đối với di sản văn hóa phi vật thể có thể là cộng đồng nơi 
phát nguồn của di sản, nơi di sản phát triển ở thời kỳ đỉnh cao, hoặc nơi di sản được phổ biến 
rộng rãi nhất hiện nay... Chủ thể có thẩm quyền xác định yếu tố không phù hợp làm giảm giá 
trị di sản trong quá trình tái tạo di sản có thể là đại diện của cộng đồng được xác định có 
quyền sở hữu trí tuệ đối với di sản, hoặc là nhà nước, hoặc một hội đồng thẩm định riêng bao 
gồm các nghệ nhân dân gian, các nhà nghiên cứu, đại diện cơ quan quản lý nhà nước và đại 
diện cộng đồng được xác định có quyền sở hữu trí tuệ đối với di sản... Bởi lẽ, mỗi di sản văn 
hóa phi vật thể, mỗi trường hợp cải biến sẽ chứa đựng những yếu tố vô cùng linh hoạt, rất khó 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
79 
để quy định cụ thể trong luật, mà cần có một hội đồng chuyên môn với đầy đủ các thành phần 
có liên quan mới có thể nghiên cứu và đưa quyết định xác đáng nhất. 
4. Kết luận 
Pháp luật về di sản văn hóa không ngừng được bổ sung, hoàn thiện trong thời gian vừa 
qua. Đặc biệt, sự ra đời của Luật Di sản văn hóa sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã tạo ra hành 
lang pháp lý vững chắc để các cơ quan chức năng và người dân triển khai thực hiện việc bảo 
tồn, tu bổ và phục hồi di sản. Tuy nhiên, pháp luật về di sản văn hóa cũng tồn tại không ít hạn 
chế, bất cập sau 10 năm thực hiện như: thiếu quy định chi tiết, thiếu đồng bộ trong hệ thống 
pháp luật, chưa bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân trong vùng di sản... Nguyên 
nhân của những bất cập trên tựu chung do sự biến đổi không ngừng của điều kiện kinh tế - xã 
hội nước ta, do hạn chế về nhận thức trong quá trình ban hành luật, do hệ thống pháp luật 
đang trong quá trình hoàn thiện nên không tránh khỏi sự mâu thuẫn, thiếu sót... Việc hoàn 
thiện những bất cập trên sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc, làm khuôn khổ chung để mọi cơ 
quan, tổ chức, người dân có sự định hướng thống nhất trong việc bảo tồn và phát huy các giá 
trị của di sản văn hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển bền vững kinh tế du lịch. Thông 
qua việc hoàn thiện pháp luật về di sản văn hóa, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân gắn 
với di sản cũng được bảo vệ, từ đó họ sẽ yên tâm hơn trong công tác bảo tồn và phát huy giá 
trị của di sản. 
Tuy nhiên, các quy định của pháp luật giống như những “phần mềm” quản lý máy tính, 
nó chỉ có thể vận hành tốt khi đi kèm với đó là “phần cứng” hỗ trợ, tức là các chính sách đi 
kèm như: Giáo dục để thay đổi nhận thức về di sản văn hóa - không chỉ để thưởng ngoạn mà 
còn để thúc đẩy phát triển du lịch, làm ra kinh tế; Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân 
lực quản lý di sản và làm du lịch về di sản; Xã hội hóa để thu hút đầu tư cho bảo tồn, phát huy 
di sản phục vụ dịch vụ du lịch; Và cách bảo tồn di sản hiệu quả nhất chính là việc bảo tồn, 
phát huy giá trị di sản văn hóa phải tỷ lệ thuận với phát triển mức sống hằng ngày của người 
dân nơi có di sản. Đây chính là những giải pháp về chính sách, pháp luật hữu hiệu để bảo tồn, 
phát huy giá trị của di sản hướng đến mục tiêu phát triển du lịchbền vững. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Nguyễn Thế Hùng (2012), 10 năm thực hiện Luật Di sản văn hóa, Tạp chí Di sản 
văn hóa, số 3/2012. 
[2]. Đoàn Bích Ngọc, 26 Di sản văn hóa ở Việt Nam được vinh danh là Di sản Thế giới, 
Báo Lâm Đồng điện tử, ngày 22/11/2017.<
van-hoa-o-viet-nam-duoc-vinh-danh-la-di-san-the-gioi-ky-i-2864780/> 
[3]. Ngô Viết Nam Sơn, Di sản chưa được xếp hạng, cần cấp bách bổ sung cơ sở pháp 
lý, quản lý, Tạp chí Kiến trúc Việt Nam điện tử, ngày 20 tháng 8 năm 
2018.<https://ashui.com/mag/tuongtac/phanbien/14552-di-san-chua-duoc-xep-hang-can-cap-
bach-bo-sung-co-so-phap-ly-quan-ly.html> 
[4]. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 
80 
[5]. Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung 
ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản 
sắc dân tộc. 
[6]. Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). 
[7]. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi 
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di 
sản văn hóa. 
[8]. Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 18/9/2012 của Chính phủ quy định thẩm quyền, 
trình tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn 
hóa, danh lam thắng cảnh. 
[9]. Các website: 
COMPLETING THE LAW ON CULTURAL HERITAGE 
Nguyen Nhu Son, M.A 
Abstract: Cultural heritage is an invaluable asset of the countries in the wold. The 
preservation and exploitation of the value of cultural heritage for the tourism development 
has been effectively implemented by nations. In the context of economic integration in the 
world, the preservation and promotion of cultural heritage values is a great policy 
implemented by the Communist Party of Vietnam and the State.However, policies and laws on 
the preservation and promotion of the cultural heritage values of our country are still 
inadequate. The paper analyzes those limitations from the perspective of law and offers some 
solutions to this problem. 
Key words: completing the law, cultural heritage, tourism development 
Người phản biện: NCS. Nguyễn Thị Thu Trang (ngày nhận bài 19/2/2019; ngày gửi phản 
biện 20/2/2019; ngày duyệt đăng 02/4/2019). 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_hoan_thien_phap_luat_ve_di_san_van_hoa.pdf