Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Tóm tắt: Theo Hồ Chí Minh, việc tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa nhân loại để xây dựng nền văn hóa cách mạng Việt Nam vừa là một truyền thống lịch sử vừa là một nhu cầu tất yếu khách quan. Ngay từ 1946, tại diễn đàn hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, Hồ Chí Minh đã nói với các nhà báo: Có cái gì tốt của Đông phương hay Tây phương ta phải học lấy để tạo nên một nền văn hóa Việt Nam. Cũng theo Hồ Chí Minh, một nền văn hóa càng giàu tính quốc tế thì bản sắc dân tộc cũng phát triển phong phú. Chính Người đã từ một người yêu nước đi đến chủ nghĩa quốc tế vô sản và từ chủ nghĩa quốc tế vô sản trở về cội nguồn dân tộc càng mạnh mẽ hơn. Nếu không học hỏi cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại thì sẽ nghèo nàn đi về vốn kiến thức. Hơn nữa, do hạn chế bởi nhiều nguyên nhân lịch sử khách quan mà xuất phát điểm để xây dựng nền văn hóa cách mạng của chúng ta ở mức thấp, có nhiều khó khăn thì đất nước trải qua nhiều năm bị đô hộ, nô dịch, chiến tranh dẫn đến sự thiếu hụt về giao lưu văn hóa. Do đó, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại vào xây dựng nền văn hóa dân tộc là một tất yếu. Chính ở thời điểm đó, Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự hòa nhập, giao lưu sáng tạo làm giàu có hơn lên các giá trị văn hóa Việt Nam. Một phóng viên Mỹ đã nhận xét về Người như sau: Cụ Hồ không phải là người chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi mà Cụ là người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước của Cụ
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
ới chủ ng- mệnh đề Nho giáo được Người vận dụng hàng trăm hĩa Mác - Lênin. Ngay từ nhỏ, Người đã học chữ lần trong các luận văn hay bài nói thông thường, khi Hán, đọc các sách cổ học Trung Hoa và đã thấu hiểu còn ở phương Tây hay khi đã về nước, từ khái niệm nhiều tư tưởng trong “Tứ thư”, “Ngũ kinh” - những “thế giới đại đồng”, khẩu hiệu “dân vi quý” đến bộ sách kinh điển của Nho giáo. Năm 1923, Nguyễn các chuẩn mực đạo đức: Cần, kiệm, liêm, chính, chí Ái Quốc đã bộc bạch với nhà thơ Xô viết Ôxíp công vô tư, v.v.. Manđenxtam: “Tôi sinh ra trong một gia đình nhà Sử dụng thuật ngữ cũ của Nho giáo nhưng Nho An Nam. Thanh niên trong những gia đình ấy Người bổ sung, sửa đổi, đem lại cho nó ý nghĩa mới, thường học Khổng giáo, đồng chí chắc biết Khổng ý nghĩa cách mạng. Nhiều khái niệm đạo đức Nho giáo không phải tôn giáo mà là một thứ khoa học về giáo như trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm từ kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Và trên cơ sở xưa đã được sử dụng rộng rãi, trở nên quen thuộc đó người ta đưa ra khái niệm về thế giới đại đồng” với nhân dân. Khi đề cập đến đạo đức mới, Người [1, tr. 461]. cũng sử dụng những khái niệm đó nhưng với nội Những năm học chữ Hán từ thuở thiếu thời dung hoàn toàn mới như Người nói: “Đạo đức cũ là chặng đầu tiên tiếp nhận văn hóa Trung Quốc. Đó và đạo đức mới khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như một chặng quan trọng với ý nghĩa làm cơ sở để mở người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đường cho sự tiếp nhận các giá trị văn hóa nhân loại đức mới như người hai chân đứng vững được dưới sau này. Sự tiếp thu các giáo lý của đạo Khổng với đất, đầu ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa Người không thụ động, Người tìm hiểu và vận dụng nêu ra cần, kiệm, liêm, chính, nhưng không bao giờ những điều gần gũi với cuộc sống. Chính vì vậy, làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự khi dạy học ở trường Dục Thanh (tại Phan Thiết quyền lợi cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, 102 Khoa học & Công nghệ - Số 18/Tháng 6 - 2018 Journal of Science and Technology ISSN 2354-0575 liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho Thái là Lô-ca-nu-khó. 4 tháng xuống tóc, khoác áo nhân dân theo để lợi cho nước cho dân” [5, tr.220]. cà sa, ăn chay niệm Phật, cùng với các vị chân tu Hay trong bài viết Ý kiến về việc làm và xuất bản bàn bạc về “lô ngà, vị tha” và những điều cao siêu loại sách “người tốt, việc tốt”, Hồ Chí Minh cho khác trong triết lý nhà Phật; đã cùng với kiều bào rằng: “đạo đức ngày nay cao rộng hơn: không phải bắt tay vào xây tường dựng chùa, viết bài ca Trần chỉ có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với Hưng Đạo, nhằm giáo dục chủ nghĩa yêu nước, kết dân” [6, tr.673]. hợp lý tưởng “cứu khổ, cứu nạn” với lý tưởng cứu Người tôn trọng những hạt nhân hợp lý đồng nước, giải phóng dân tộc. thời phê phán những quan điểm sai lầm phản tiến Cùng với sự tiếp thu tinh hoa văn hóa phương bộ của Nho giáo. Nho giáo là hệ tư tưởng của giai Đông, Hồ Chí Minh đã đến với văn hóa phương Tây cấp thống trị và Khổng Tử như Hồ Chí Minh đã mà trước hết là những tư tưởng tiến bộ đương thời. viết: “Khổng Tử đã viết Kinh Xuân Thu để chỉ trích Sự hiểu biết nhiều ngoại ngữ như tiếng Hán, Pháp, “những thần dân nổi loạn” và “những đứa con hư Nga, Anh, Tây Ban Nha, Đức Ý, v.v.. đã giúp Người hỏng”, nhưng ông không viết gì để lên án những tội đọc nhiều sách báo khác nhau, để biết đến và có ác của “những người cha tai ác” và “những Hoàng điều kiện tiếp xúc với nhiều nhà văn hóa, nhà văn, tử thiển cận”. Nói tóm lại, ông rõ ràng là người nhà thơ như: H.Bắcbuýt, R. Rôlăng, V. Huygô, v.v.. phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống lại Chính nhờ biết nhiều ngoại ngữ mà Người có điều những người bị áp bức” [2, tr. 562]. Như vậy, khi kiện tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. khai thác những hạt nhân hợp lý của Nho giáo, Hồ Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Chí Minh đã tiến hành phê phán, bác bỏ những mặt Nguyễn Ái Quốc mang theo hành trang của mình tiêu cực của Nho giáo như tư tưởng đẳng cấp, coi những yếu tố của văn hóa Pháp, văn hóa phương khinh phụ nữ, khinh lao động chân tay, v.v.. Tây, trong đó có cả sự hoài nghi những khái niệm Hồ Chí Minh tiếp thu các giá trị tiến bộ của đẹp đẽ: Tự do - Bình đẳng - Bác ái. Những tác phẩm Phật giáo, đó là quan niệm về lòng từ bi, bác ái, cứu thể hiện tư tưởng tiến bộ của Môngteskiơ, Vônte, khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, Rútsô, v.v.. Nguyễn Ái Quốc đã từng đọc và bằng thương yêu vạn vật, chống lại sự bất bình đẳng, sự khảo cứu trực tiếp nhờ cuộc hành trình qua nhiều phân biệt đẳng cấp. Văn hóa phật giáo cũng mang nước trên thế giới, Người đã tìm đến quê hương của tính dung hòa mềm dẻo, không ham hố tranh giành, các cuộc cách mạng, tiếp cận với các nền văn hóa. chủ trương hòa hợp, hòa giải, kêu gọi tình thương Không phải ngẫu nhiên Người đã thấy mặt trời của yêu, tha thứ, chấp nhận lẫn nhau. Phật giáo vào Việt nơi đặt tượng thần Tự do ở cảng Niu-oóc, nơi ra Nam từ đầu công nguyên, góp phần đặt nền tảng đời bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng 1776. Người nhân văn, hướng thiện cho văn hóa Việt Nam, cho đã thấy cái quý báu của cách mạng Pháp là “truyền lễ nghi phong tục Việt Nam, góp phần xây dựng và thống dân chủ vẻ vang”. Qua lăng kính giải phóng củng cố nền chính trị và ngoại giao của nhà nước dân tộc, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu lý tưởng, tự do, phong kiến Việt Nam trong những thế kỷ đầu vừa bình đẳng dân chủ một cách sâu sắc. Trong Tuyên giành được độc lập. ngôn độc lập năm 1945, sau khi nêu rõ tinh thần của Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao bản Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, từ đấy Hồ những giá trị nhân văn Phật giáo. Theo Người, Phật Chí Minh đã nêu rõ quan điểm của mình: “Tất cả ra đời cũng chính là để “Lợi lạc quần sinh, vô ngã các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân vị tha”, những giá trị đạo đức nhân văn Phật giáo có tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và sự tương đồng với lí tưởng nhân văn của sự nghiệp quyền tự do” [3, tr. 1]. Người còn trích dẫn Tuyên cách mạng, đó là đều phấn đấu vì hạnh phúc con ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng người. Hấp thụ đạo lý thương nước, thương nhà, Pháp 1791 và khẳng định: “Đó là những lẽ phải thương người, thương mình của dân tộc, Hồ Chí không ai chối cãi được” [3, tr. 1]. Người lên án: Minh sớm có một tình cảm tương thân, tương ái, độ “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi lượng bao dung, rất gần gũi với giáo lý của đạo Phật dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất về từ bi, cứu khổ, cứu nạn, trừ ác, khuyến thiện, v.v.. nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng Người đã gạt bỏ những mặt tiêu cực, thụ động của trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” [3, tr. 1]. Phật giáo và tiếp thu những tư tưởng hợp lý như: tư Độc lập cho Tổ quốc, chủ quyền của quốc tưởng vị tha vì người khác, lòng nhân đạo bao la, gia, tự do hạnh phúc cho đồng bào, trở thành khát khao giải thoát con người ra khỏi khổ đau, mưu nguyên tắc cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí cầu hạnh phúc, đề cao chân lý và quyền bình đẳng Minh. Nguyên tắc này là cơ sở để chống chủ nghĩa cho con người.. Khi hoạt động bí mật trong cộng cơ hội, chủ nghĩa thỏa hiệp, nhân danh quyền con đồng Việt kiều tại Thái Lan, Khoảng tháng 7.1929, người để xóa nhòa ranh giới giai cấp, dân tộc và Người ẩn danh đi tu tại một ngôi chùa Việt có tên văn hóa. Khoa học & Công nghệ - Số 18/Tháng 6 - 2018 Journal of Science and Technology 103 ISSN 2354-0575 Sau khi về Quảng Châu (Trung Quốc), không đối lập văn hóa phương Đông với văn hóa Nguyễn Ái Quốc có dịp tiếp xúc với Chủ nghĩa Tam phương Tây, truyền thống với hiện đại mà còn tìm dân của Tôn Trung Sơn, tiếp thu những yếu tố phù ra con đường kết hợp văn hóa Đông - Tây một cách hợp với hoàn cảnh Việt Nam, để đề ra yếu tố dân tộc hài hòa. Nhờ sự hiểu biết lịch sử văn hóa nước mình độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc, nghĩa khá tường tận, đầy đủ, có hệ thống, Hồ Chí Minh là vận dụng Tôn Trung Sơn nhưng đã có sự đổi khác. đã tiếp nhận văn hóa thế giới thuận lợi, có kết quả, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, bao những yếu tố, những mặt tích cực, tiến bộ của văn gồm: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền và hóa nhân loại từ học thuyết Mác - Lênin, học thuyết chủ nghĩa dân sinh. Nội dung của Chủ nghĩa Tam Khổng Tử, đến học thuyết tôn giáo của Giêsu, chủ dân được trình bày qua 16 bài giảng của Tôn Trung nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đều được Người Sơn từ tháng Giêng đến tháng 8 năm 1924. Ông đặt tiếp thu có chọn lựa, bổ sung, nhằm phục vụ cho câu hỏi: “Chủ nghĩa Tam dân là gì? Định nghĩa theo mục đích cách mạng, cho sự nghiệp giải phóng con cách đơn giản nhất thì Chủ nghĩa Tam dân là chủ người, làm giàu cho bản sắc văn hóa Việt Nam. nghĩa cứu nước” [7 ,tr. 49]. Khi nói về chủ nghĩa Người đã từng trả lời các nhà báo nước ngoài: Học dân tộc. Ông cho rằng người Trung Quốc chỉ có thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng chủ nghĩa gia tộc, tông tộc, không có chủ nghĩa dân đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của tộc. Sức đoàn kết của người Trung Quốc chỉ mới nó là lòng nhân ái. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của đạt tới tông tộc chứ chưa đạt tới dân tộc. Ở Trung nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Quốc theo ông: “chủ nghĩa dân tộc chính là chủ Tôn Dân Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích nghĩa quốc tộc” [7, tr. 51]. Khi bàn về chủ nghĩa hợp với điều kiện nước chúng tôi. Khổng Tử, Giêsu, dân quyền theo ông: dân quyền “đó là sức mạnh C. Mác, Tôn Dân Tiên chẳng có những điểm chung chính trị của nhân dân” [7, tr. 162]. Để thực hiện đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài dân quyền, phải thực hiện các quyền của dân và của người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu họ còn sống chính phủ. Ông cho rằng dân có bốn quyền: quyền trên đời này, nếu họ họp lại một chỗ, tôi tin rằng tuyển cử, quyền bãi miễn, quyền sáng chế và quyền họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như phúc quyết. Chính phủ có năm quyền: quyền hành những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người chính, quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền khảo học trò nhỏ của các vị ấy. Câu trả lời ấy của Hồ Chí thí và quyền giám sát. Theo ông: “Dùng bốn chính Minh đã khẳng định tư tưởng văn hóa của Người: quyền của nhân dân để quản lý năm trị quyền của Tiếp thu những giá trị văn hóa nhân loại, chống lại chính phủ, như vậy mới xem là một cơ quan chính thái độ cố chấp mang tính chính trị hoặc tôn giáo để trị dân quyền hoàn hảo” [7, tr. 308]. Chín quyền làm cho văn hóa dân tộc phát triển; lấy hạnh phúc này cân bằng với nhau thì dân quyền mới thực hiện của con người làm thước đo giá trị văn hóa của nhân được. Khi nói về chủ nghĩa dân sinh, ông cho rằng loại; tìm thấy cái hay, cái đẹp của mọi học thuyết để đó là “đời sống của nhân dân, sinh tồn của xã hội, học tập, khai thác và phát triển làm giàu tư tưởng sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng” của mình. [7, tr. 313]. Ông quan niệm chủ nghĩa dân sinh là chủ nghĩa xã hội, còn gọi là chủ nghĩa cộng sản, tức 3. Kết luận là chủ nghĩa đại đồng . Sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại của Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh kế Hồ Chí Minh là có sự phát triển qua các chặng thừa và phát triển một số nội dung Chủ nghĩa Tam đường khác nhau, Người tiếp thu những tư tưởng dân của Tôn Trung Sơn. Người chủ trương xây dựng văn hóa tiên tiến, tiếp thu khoa học - kỹ thuật tiên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải là một tiến và những kinh nghiệm quản lý xã hội. Người nước “độc lập, tự do, hạnh phúc”. Mong ước lớn chú trọng từ tiếp thu có chọn lọc (có chối từ, có chối nhất của Hồ Chí Minh là dân tộc độc lập, dân quyền bỏ) nhưng không kỳ thị không đóng cửa, không tự do, dân sinh hạnh phúc. Như vậy, hạt nhân Chủ “bắt chước” hoặc trở thành nô lệ về văn hóa. Tiếp nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn in đậm dấu ấn thu văn hóa nhân loại làm cho văn hóa dân tộc ngày trong tư tưởng của Người. Nhưng Người không sao càng giàu thêm phong phú thêm ngang tầm với thời chép, không phỏng theo Chủ nghĩa Tam dân mà thận đại là quan điểm đúng nhất của Hồ Chí Minh. trọng lọc ra, bảo tồn và phát triển hạt nhân dân chủ cách mạng của Tôn Trung Sơn nhào nặn với thực Lời cảm ơn tiễn Việt Nam, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trung tâm hình thành tư tưởng của Người mang bản chất dân Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học và Công nghệ, tộc, phản ánh quy luật phát triển của lịch sử. Trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, đề tài Tiếp thu văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh mã số UTEHY.T030.P1718.01. 104 Khoa học & Công nghệ - Số 18/Tháng 6 - 2018 Journal of Science and Technology ISSN 2354-0575 Tài liệu tham khảo [1]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [2]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [3]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [4]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [5]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [6]. Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. [7]. Tôn Trung Sơn. Chủ nghĩa tam dân, NXB Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 1995. HO CHI MINH’S HERITAGE ON COLLECTION OF HUMAN CULTURE Abstract: According to Ho Chi Minh, the selective absorption of human culture to build a revolutionary culture in Vietnam is both a historical tradition and an indispensable objective. As early as 1946, at the first national conference of cultural conferences, Ho Chi Minh told reporters: There is something good in the East or in the West that one must learn to create a Vietnamese culture. According to Ho Chi Minh, the richer the international culture, the identity of the nation also grows rich. It was from a patriot who went to proletarian internationalism and from proletarian internationalism back to the more powerful nationalist roots. If you do not learn the beauty or beauty of human culture, you will be poor in knowledge. Moreover, due to many historical reasons caused by the objective to build our revolutionary culture at low level, there are many difficulties, the country experienced many years of domination, slavery, war led to a lack of cultural exchanges. Therefore, absorbing the quintessence of human culture to build national culture is inevitable. It was at that time that Ho Chi Minh was a symbol of integration and exchanges of creativity and enrichment of Vietnamese cultural values. One American correspondent commented on him as follows: Ho was not a narrow nationalist, but he was a man who loved the French culture while fighting the French colonialists, who valued the traditions of the French. US network while the United States sabotage your country. Keywords: The essence of human culture. Khoa học & Công nghệ - Số 18/Tháng 6 - 2018 Journal of Science and Technology 105
File đính kèm:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_tiep_thu_tinh_hoa_van_hoa_nhan_loai.pdf