Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ

Nhập thế hiện nay là xu hướng chung trong sự phát triển của các tôn giáo hiện đại và đặc biệt biểu

hiện rõ nét trong Phật giáo - một tôn giáo xuất thế nhưng trong nội tại đã hàm chứa tính chất nhập thế rất

rõ ràng. Đức Phật chỉ cho chúng ta con đường đi đến giác ngộ, giải thoát đó là sự nỗ lực học pháp và hành

pháp của mỗi cá nhân để khai mở trí tuệ, tự đoạn trừ vô minh và đau khổ. Asoka là một điển hình của nhập

thế. Ông đã chiến thắng được chính bản thân mình, chuyển “mê” khai “ngộ” và ứng dụng lời Phật dạy

vào xây dựng, thống nhất một quốc gia Ấn Độ rộng lớn và phát triển mạnh mẽ Phật giáo trong và ngoài

xứ Ấn Độ.

Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ trang 1

Trang 1

Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ trang 2

Trang 2

Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ trang 3

Trang 3

Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ trang 4

Trang 4

pdf 4 trang xuanhieu 2740
Bạn đang xem tài liệu "Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ

Tinh thần nhập thế của Phật giáo Ấn Độ
 thoát không chỉ dành riêng 
 Phật giáo là tinh hoa của văn hóa Ấn Độ cổ, cho đẳng cấp Bà La Môn bởi xuất thân có tính thần 
ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị thánh. Con đường giải thoát đó là bình đẳng cho tất 
truyền thống văn hóa Ấn Độ lúc bấy giờ, đặc biệt là cả mọi người, mỗi người phải tự đi, tự đến, tự tu 
những tư tưởng triết học và đạo đức nhân văn trong hành để giác ngộ được vô ngã, tức là thoát được vô 
138 Khoa học & Công nghệ - Số 14/Tháng 6 - 2017 Journal of Science and Technology
 ISSN 2354-0575
minh về chính tồn tại vô thường của bản thân mình. Bát Chánh Đạo, là sự kết hợp Tam học (Giới-Định-
Phật giáo hướng tới vấn đề vô ngã, một triết lý sống Tuệ). Sự hài hoà đó là con đường Trung đạo, không 
uyên thâm, vi diệu, vừa giúp con người tự chủ, thoát sa vào hai thái cực: không theo con đường tự hành 
ly sự chi phối của thân người và thế giới, vừa vượt xác mà cũng không theo con đường khoái lạc. Con 
qua được các khổ đau, sầu muộn do hiểu về tính đường đó dẫn con người ta đến chỗ tri, kiến, an tịnh 
vô thường của tự ngã và thế giới gây ra, vừa là con và Niết bàn. Con đường ấy không hề tách rời cuộc 
đường đưa đến tâm giải thoát và tuệ minh triết. đời, lánh đời mà chính là hành pháp ngay giữa cuộc 
 Bằng triết lý mới, Đức Phật đã tấn công vào đời và đạt đến Niết bàn cũng ngay giữa cuộc đời 
truyền thống phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn trần thế.
Độ thời bấy giờ. Người không kỳ thị, phủ nhận hay Đức Phật không tán thành những nghi thức 
bài xích truyền thống của Bà la Môn giáo. Ngược cúng tế có tính chất mê tín và những phép tu khổ 
lại, Người đã thiết lập một đường hướng mới ngay hạnh làm suy nhược con người, đồng thời đấu tranh 
trên nền tảng kế thừa từ những giá trị nhân văn của xóa bỏ sự phân biệt giai cấp, đẳng cấp tôn giáo. Đức 
đạo Bà La Môn, đề cao con đường và cách thức Phật lên án các hình thức cúng tế có giết hại súc vật 
tu dưỡng đạo đức của Bà La Môn giáo cũng như thời đó ở Ấn Độ. Người muốn tất cả mọi người, 
nhiều phẩm hạnh tốt đẹp của một người Bà La Môn. mọi loài đều sống đạo đức, lương hảo. Người thuyết 
Theo cách đó Đức Phật đã đưa nội hàm mới vào pháp vì sự yên vui, hạnh phúc của mọi chúng sinh. 
trong khái niệm Bà La Môn truyền thống, tức là ai Lúc đó, Phật giáo không phải là một hệ thống những 
chiến thắng được sự ràng buộc của Ngã và vượt qua nghi thức, luật lệ, cầu tụng giáo điều và phức tạp mà 
được vô minh bằng trí tuệ, đạo đức và thiền định chỉ là một lối sống để có sự thanh tịnh trong suy 
đều được coi là Bà La Môn, chứ không phải chỉ do nghĩ, nói năng và hành động. 
xuất thân. Như vậy, nhờ hệ thống giáo lý giàu tính nhân 
 Đức Phật đã sáng lập ra một tôn giáo mới đủ văn, bình đẳng về đẳng cấp tôn giáo cùng với những 
cả lý và trí, đề cao trí tuệ và trách nhiệm của cá nhân phương pháp tu tập thiết thực kế thừa từ các tôn 
trên con đường tu tập chứ không câu nệ vào xuất giáo lớn của Ấn Độ, Phật giáo thể hiện rõ tính chất 
thân, dòng dõi của cá nhân đó. Sự đổi mới về tôn nhập thế đắc dụng ngay từ khi mới xuất hiện. Vì vậy 
giáo ấy rất thích hợp với số đông người Ấn Độ thời Phật giáo đã không chỉ dừng lại ở quê hương Ấn 
đó. Sự đổi mới này buộc Bà La Môn giáo phải cách Độ mà còn mở rộng sang các vùng Tiểu Á, Đông 
tân những quy tắc tôn giáo khắc nghiệt và giảm bớt Á, v.v.. và ngày nay lan sang cả phương Tây. Ở mỗi 
tính thần quyền của đẳng cấp này. Đến thế kỷ V - một vùng miền, các quốc gia khác nhau với những 
VI, Bà La Môn giáo đã tự đổi thành Hindu giáo, đặc trưng về điều kiện địa lý, về phong tục tập quán, 
theo nghĩa tôn giáo của người Hindu, tức tôn giáo văn hoá, Phật giáo với cốt lõi từ, bi, hỷ, xả nhất vị 
của người Ấn Độ chứ không phải của riêng đẳng cứu đời đã nhanh chóng hòa nhập vào nền văn hóa 
cấp Bà La Môn. Sự đổi mới này thực sự là một cuộc của các quốc gia và trở nên đa dạng, phong phú. 
cách mạng tôn giáo. Song, Phật giáo vẫn giữ được bản sắc của mình. 
 Để giáo dục, thuyết phục con người, Đức Đó là do hệ thống giáo lý đặc sắc cùng nền đạo đức 
Phật đã trình bày Tứ Diệu Đế như là chân lý đúng nhân văn thiết thực nhập thế dựa trên cơ sở của sự 
đắn để tất cả mọi người có thể tinh tấn trên con kết hợp học đi đôi với hành (Giới - Định - Tuệ) để 
đường giải thoát. Đế thứ 1: Khẳng định cuộc đời là giải thoát tuệ, giải thoát tâm, tạo nên mẫu người từ 
bể khổ. Đế thứ 2: Có nhiều nguyên nhân của khổ. bi hỷ xả, lánh ác, làm thiện, xây dựng một thế giới 
Đế thứ 3: Có thể chấm dứt được sự khổ, và Đế thứ hòa bình, văn minh, mọi chúng sinh đều được tự do, 
4: Con đường để tự chấm dứt đau khổ. Toàn bộ Tứ hạnh phúc. 
diệu đế là con đường nhận thức và tu dưỡng để tới 
Niết bàn, giải thoát. Trên cơ sở thuyết vô thường, vô 2.2. Điển hình nhập thế của Phật giáo thời vua 
ngã, Phật giáo muốn xây dựng một triết lý sống vị Asoka
tha, nhân bản. Khi đã thấu suốt được triết lý vô ngã, Nói đến Phật giáo Ấn Độ và sự truyền bá 
vô thường con người sẽ vươn lên khỏi cuộc sống vị Phật giáo ra các nước lân cận, chúng ta không thể 
kỷ, sẽ tự giác đoạn diệt tham, sân, si,... và sống theo không nhắc tới hoàng đế Asoka. Trong lịch sử Ấn 
tinh thần: “từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha”, yêu thương Độ ông đã để lại nhiều dấu tích quan trọng, song sự 
mọi người, thông cảm sâu sắc với những nỗi đau kiện quan trọng nhất có lẽ là sự chuyển đổi trong 
khổ của người khác như nỗi đau của chính mình, tâm khí của ông từ một hoàng đế bạo tàn trở thành 
tìm mọi cách giảm nhẹ nỗi đau khổ cho họ. một vị vua hết mình cho một nền chính trị hoà bình 
 Trên con đường tu tập, Phật giáo yêu cầu và cai trị dân chúng bằng đạo đức nhân văn, dùng 
có sự kết hợp hài hoà của cả hai nhân tố trí tuệ và chính lời Phật dạy để giáo hoá chúng dân. 
hành động. Đó chính là nội dung của con đường Asoka kế thừa cơ nghiệp của tổ tiên, thống 
Khoa học & Công nghệ - Số 14/Tháng 6 - 2017 Journal of Science and Technology 139
ISSN 2354-0575
nhất một Quốc gia rộng lớn, xây dựng cơ nghiệp dẹp giặc và điều đó khiến mọi người tin rằng lòng 
xán lạn, nhưng khác với các vị hoàng đế khác, danh từ bi có thể thắng hung tàn, chỉ có sự tha thứ, chấm 
muôn thuở của ông được lưu là nhờ đã thực hiện dứt thù hận, mới có thể cắt đứt được oán kết dài lâu. 
thành công một nền chính trị nhân từ theo tinh thần Với những việc làm trên, có thể nói, ông là người 
Phật giáo. Sau cuộc chiến Kalinga bạo tàn, Asoka tiên phong đề xướng một mô hình hòa bình thế giới. 
đã giành chiến thắng, nhưng để lại bao xót thương Ông không chỉ hiểu chánh pháp mà còn đem chánh 
hận thù trong lòng dân chúng. Để thu phục được pháp thể nghiệm trong cuộc đời và tích cực nhập 
lòng dân sau bao chết chóc, thương vong ấy, Asoka thế cứu đời.
ăn năn hối lỗi và dùng chính tình thương và sự hối Tuy tự nhận mình là tín đồ Phật giáo, chọn 
cải của mình để chuộc lỗi với chúng dân. Asoka tìm Phật giáo làm quốc giáo, nhưng Asoka đồng thời 
đến một tôn giáo có khả năng xoa dịu nỗi đau khổ khuyến khích các tôn giáo khác cùng phát triển 
trong lòng họ và có lẽ không tôn giáo nào thích hợp với phương châm khoan dung tôn giáo để lãnh đạo 
hơn Phật giáo. Asoka dùng chính những lời dạy của chính sự. Nhà vua kêu gọi các giáo phái thôi tự khen 
Đức Phật mà phổ độ, giáo hoá chúng dân. Song tụng và chỉ trích các giáo phái khác mà cố tập trung 
chính bản thân Asoka đã bị thuyết phục bởi tinh trau dồi đạo đức tốt đẹp của dân tộc Ấn Độ: “lòng 
thần khoan dung, Từ, Bi, Hỷ, Xả, vô ngã, vị tha đó ngay thật, biết kiềm chế, lòng từ bi bác ái, sống 
của Phật giáo. Ông đã cải đạo từ Bà La Môn giáo thanh tịnh hoà nhã, tôn trọng các bậc huynh trưởng 
sang Phật giáo và trở thành một ông vua Phật. Thực và thầy dạy, rộng rãi với bạn bè thân quyến, người 
hành chánh pháp và làm cho loài người hiểu chánh quen, thậm chí cả với nô lệ và ngăn cấm nghiêm 
pháp, biết tu tỉnh, biết hối cải và phục thiện - đó minh các lý tưởng xấu xa như giận dữ, hung hăng, 
là con đường đã được ông lựa chọn với tâm niệm: ganh tỵ” [5; tr.69]. Ông muốn mọi người trong xã 
“chiến thắng cao cả nhất là chiến thắng lòng người hội ông hãy sống đạo đức, thánh thiện hơn để qua 
bằng đạo đức nhân ái” [4]. đó giảm thiểu sự khác biệt giữa thần thánh với con 
 Không chỉ trở thành một tín đồ sùng Phật người; xây dựng một xã hội hòa bình, trật tự và mọi 
giáo mà Asoka còn tự đặt cho mình nhiệm vụ làm người cùng sống tự do, hạnh phúc. Cách áp dụng 
cho dân chúng sống theo lời dạy của Đức Phật. Ông đạo đức tôn giáo này của Asoka đã giải quyết được 
đã cho dựng khắp nơi nhiều trụ cột đá có khắc ghi thực trạng tranh chấp giữa các tôn giáo ở Ấn Độ lúc 
lời dạy của Đức Phật, nhằm truyền bá một kiểu sống bấy giờ - một trong những nguyên nhân cơ bản cản 
mới cho các thần dân của mình và gieo rắc nơi họ trở quá trình thống nhất Ấn Độ là do những hiềm 
tấm lòng từ bi, mộ đạo. Bắt đầu từ thời vua Asoka, khích, xung đột hay chiến tranh giữa các cộng đồng 
Phật giáo đã trở thành Quốc giáo, thay thế vị trí Bà tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.
La Môn giáo lâu đời. Điểm tựa Phật giáo đã giúp Asoka đã cho khắc lên cột đá những chỉ dụ 
Asoka thành công trong việc mở rộng lãnh thổ và về đạo lý làm người, làm thần dân của vương quốc 
thống nhất toàn cõi Ấn Độ rộng lớn. Ông đã lập một Ấn Độ hùng mạnh theo tinh thần Phật Giáo. Đặc 
chiến công không phải bằng gươm đao mà là bằng biệt trong chỉ dụ thứ 12 đã nói rằng: “Nhà vua tôn 
bánh xe pháp từ bi, nhân ái của Phật giáo, để bánh trọng tất cả mọi người, tất cả các giáo sĩ cũng như 
xe đó luân chuyển mãi và Phật giáo lan rộng khắp tín đồ của các tôn giáo khác. Tín đồ của các tôn 
Ấn Độ, tới cả những quốc gia lân cận trong bang giáo khác nhau không được kỳ thị, chê bai tôn giáo 
giao hòa bình giữa các nước. khác dưới bất kỳ hình thức hay lý do nào. Nhà vua 
 Bia ký II, Jaugad, Kalinga viết: “Các quốc khuyến khích sự hoà hợp giữa các tôn giáo và kêu 
gia biên giới chưa bị chinh phục có thể nghĩ như thế gọi tất cả các tôn giáo hãy giảng các giáo lý đúng 
này: Nhà vua này muốn gì ở chúng ta? Mong muốn đắn. Nhà vua không trông chờ những lễ vật hay lời 
duy nhất của ta đối với các quốc gia này là họ hãy tán dương, mà mong rằng, bằng việc làm thực tế 
hiểu rằng họ không nên lo sợ mà hãy tin tưởng ở ta, các tôn giáo tôn trọng lẫn nhau. Có như vậy, sự tăng 
rằng họ sẽ nhận được hạnh phúc từ ta chứ không trưởng của mỗi tôn giáo sẽ là sự tuân thủ luật trung 
phải đau khổ, và họ cần hiểu thêm rằng ta sẽ khoan đạo”[6; tr.15-16]. Asoka đã thực hiện được tinh 
dung tất cả và sẽ giúp họ thực hành chánh pháp thần bình đẳng tôn giáo của đức Phật. Theo đó, mọi 
để được lợi ích đời này và đời sau” [4]. Đoạn văn người đều được bình đẳng và hưởng hạnh phúc như 
bia này cho thấy, ông có một mối bang giao rộng nhau dù thuộc tôn giáo nào dưới triều đại của ngài. 
khắp với các vùng lãnh thổ lân cận. Sự chấm dứt Asoka đã mang đến cho Đạo Phật Ấn Độ một lần 
chiến tranh, khuyến khích hạn chế sát hại vật vô tội, nhập thế thành công không chỉ về phương diện đạo 
khuyên con người thực hành đạo từ bi đã không đức toàn xã hội Ấn Độ, mà cả về phương diện chính 
khiến cho Quốc gia ông lãnh đạo trở nên yếu hèn, trị và văn hóa cả khu vực lúc đó.
nhu nhược mà ngược lại, trong nước bớt giặc giã, Bằng việc làm và lời kêu gọi của mình, vua 
vua cũng không phải bận tâm đến việc thân chinh Asoka đã đem lại niềm tin không chỉ cho dân bản 
140 Khoa học & Công nghệ - Số 14/Tháng 6 - 2017 Journal of Science and Technology
 ISSN 2354-0575
xứ mà cả dân chúng ngoài biên cương và các vùng vị bình đẳng cứu đời, Người đã đem tư tưởng của 
lân cận cũng thấy đó mà kính phục. Là một nhà mình hòa nhập vào cuộc đời, giáo hóa dân chúng, 
chính trị khôn ngoan, ông đã thực hiện thành công giúp tất cả chúng sinh đều có thể tu tập, lánh ác làm 
một cuộc chinh phục bằng hoà bình lấy Phật Pháp thiện, xa rời con đường bất chính và đạt giải thoát, 
làm điểm tựa thay cho gươm đao. Lời Phật dạy đã tự do, hạnh phúc. Trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, 
được Asoka vận dụng khéo léo vào các vấn đề chính Asoka là một điển hình của nhập thế. Ông đã chiến 
trị - xã hội Ấn Độ đương thời và làm cho chúng sinh thắng được chính bản thân mình, chuyển “mê” khai 
trong xã hội Ấn Độ dưới thời ông đều được ấm no, “ngộ” và ứng dụng lời Phật dạy vào xây dựng, thống 
hạnh phúc. nhất một quốc gia Ấn Độ rộng lớn nhất từ trước 
 đến nay. Những hoạt động nhập thế thiết thực của 
3. Kết luận ông không chỉ mang lại một Quốc gia Ấn Độ thịnh 
 Phật giáo thông thường chủ trương “xuất vượng mà còn góp phần phát triển mạnh mẽ Phật 
thế”, song xem xét kỹ ta thấy ngay từ đầu “nhập giáo trong và ngoài xứ Ấn Độ. Sau thời đại Asoka, 
thế” đã là một tư tưởng chủ đạo của tôn giáo này. Để Phật giáo đã phát triển rộng khắp thế giới, trong đó 
đạt giải thoát, Đức Phật không khuyên con người ta có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam. Phật giáo du 
phải thoát tục, lánh đời để cầu hạnh phúc mà ngược nhập vào Việt Nam và đã trở thành một thành tố 
lại, Người chủ trương một phương châm hành động không thể thiếu trong đời sống văn hóa tâm linh của 
bằng tự lực của tha nhân để tự giải thoát cho chính người Việt. Phật giáo Việt Nam đã hòa làm một vào 
bản thân mình và đạt quả vị cao nhất tại chính cuộc dòng lịch sử dân tộc và tích cực nhập thế trên tất cả 
đời trần tục này. Đức Phật đã làm một cuộc cách các bình diện của đời sống xã hội từ chính trị, ngoại 
mạng tâm linh khi đề xướng một tôn giáo mới nhất giao đến văn hóa, giáo dục, đạo đức lối sống.
Tài liệu tham khảo
 [1]. Thích Minh Châu (dịch) (2002), Kinh Pháp cú, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
 [2]. Đỗ Quang Hưng (2006), Phật giáo Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Tạp chí 
 Khoa học xã hội (số 9), tr. 58-66.
 [3]. Đới Thần Kinh (2007), Thế tục hóa và thần thánh hóa, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (số 4), tr. 
 11-17.
 [4]. Quảng Mẫn (2009), Asoka huyền thoại và sự thật, 
 [5]. P.V.Bavat (chủ biên) (2002), 2500 năm Phật giáo, Nguyễn Đức Tư, Nguyễn Hữu Song (dịch), 
 NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
 [6]. Hoàng Thị Thơ (2007), Vài suy ngẫm về khoan dung tôn giáo trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ và 
 Phật giáo Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (số 12), tr. 11-19.
 THE PENETRATION INTO LIFE OF INDIAN BUDDHIST
Abstract:
 The present penetration into life is a general trend in development of modern religions and is 
particularly prominent in Buddhism - a ‘spiritual exit’ religion that is however intrinsically included 
penetration into life. The Buddha shows us the path to enlightenment and liberation which are the 
individual’s effort to study the dharma and the law to open up the mind, to eliminate the ignorance and 
suffering. Asoka is a typical example of penetration into life. He won himself, transformed the ignorance 
into the enlightenment and applied the Buddha’s teachings to the building, unification of a vast Indian 
nation, and strongly developed the Buddhism in and outside of India.
Keywords: penetration into life, Indian Buddhism, Asoka.
Khoa học & Công nghệ - Số 14/Tháng 6 - 2017 Journal of Science and Technology 141

File đính kèm:

  • pdftinh_than_nhap_the_cua_phat_giao_an_do.pdf