Thử nghiệm ương cá chẽm giống (Lates calcarifer Bloch, 1790) cỡ 3-10 cm trên bể composite ở các mật độ khác nhau
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định mật độ ương cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) giống
phù hợp từ cỡ 3 – 10 cm trên bể composite 10m3. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu
nhiên (CRD), gồm 3 nghiệm thức mật độ khác nhau và lặp lại 3 lần: 300 con/m3 (D300), 500 con/
m3 (D500) và 700 con/m3 (D700). Cá giống có chiều dài và khối lượng trung bình ban đầu lần lượt
là 3,50 ± 0,01 cm và 1,52 ± 0,01 g/con. Chế độ chăm sóc được áp dụng theo quy trình phổ biến
hiện nay. Kết quả sau 45 ngày ương, các thông số môi trường nuôi đều nằm trong khoảng cho phép
sự phát triển tốt của cá chẽm giống. Nghiệm thức D300 cho thấy tăng trưởng về chiều dài (10,71 ±
0,03 cm), khối lượng (10,44 ± 0,09 g/con), tỷ lệ sống (96,45 ± 0,39%) và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn
(1,57 ± 0,02) tốt nhất và khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05)="" so="" với="" nghiệm="" thức="" d500="" (chiều="" dài="">
bình = 9,47 ± 0,11 cm; trọng lượng trung bình = 9,68 ± 0,09 g/con; tỷ lệ sống = 94,00 ± 1,00%;
FCR = 1,64 ± 0,01) và D700 (chiều dài trung bình = 9,26 ± 0,04 cm; trọng lượng trung bình = 9,29
± 0,18 g/con; tỷ lệ sống = 94,36 ± 1,91%; FCR = 1,65 ± 0,02). Việc ương cá chẽm giống từ 3 – 10
cm trên bể composite với mật độ trên 700 con/m3 khi cỡ cá dưới 5 cm và 300 - 500 con/m3 khi cá
đạt cỡ trên 5 cm nên được áp dụng phổ biến. Ngoài ra, tỷ lệ phân đàn và thời gian lọc phân cỡ khi
ương ở các mật độ cao hơn cần được thảo luận thêm.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử nghiệm ương cá chẽm giống (Lates calcarifer Bloch, 1790) cỡ 3-10 cm trên bể composite ở các mật độ khác nhau
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 3. Tĕng trưởng khối lượng của cá chẽm ở các mật độ ương khác nhau Thông số Nghiệm thức D300 D500 D700 Ban đầu 5 ngày 15 ngày 25 ngày 35 ngày 45 ngày 1,53 ± 0,02 a 2,83 ± 0,02a 4,94 ± 0,04a 6,96 ± 0,08a 8,97 ± 0,07a 10,44 ± 0,09a 1,52 ± 0,01a 2,84 ± 0,01a 4,57 ± 0,02b 6,22 ± 0,08b 8,21 ± 0,10b 9,68 ± 0,09b 1,52 ± 0,01a 2,85 ± 0,01a 4,32 ± 0,03c 6,00 ± 0,01c 7,72 ± 0,04c 9,29 ± 0,18c Giá trị = trung bình ± độ lệch chuẩn. Các trung bình trong cùng một hàng có cùng ký tự chỉ sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Khối lượng (g/con) Ban đầu – ngày 5 Ngày 5 – ngày 15 Ngày 15 – ngày 25 Ngày 25 – ngày 35 Ngày 35 – ngày 45 0,26 ± 0,01 a 0,21 ± 0,01a 0,20 ± 0,01a 0,18 ± 0,02a 0,15 ± 0,02a 0,26 ± 0,01a 0,17 ± 0,01b 0,16 ± 0,01b 0,18 ± 0,01a 0,15 ± 0,01a 0,27 ± 0,00a 0,15 ± 0,00c 0,17 ± 0,00b 0,16 ± 0,01b 0,15 ± 0,02a Tốc độ tĕng trưởng khối lượng (g/ngày) 39TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II Bảng 4. Tỷ lệ sống của cá chẽm ở các mật độ ương khác nhau Bảng 5. Tỷ lệ chuyển đổi thức ĕn của cá chẽm ở các mật độ khác nhau Thời gian Nghiệm thức D300 D500 D700 Ban đầu – ngày 5 Ngày 5 – ngày 15 Ngày 15 – ngày 25 Ngày 25 – ngày 35 Ngày 35 – ngày 45 99,10 ± 0,51a 98,22 ± 0,51a 97,69 ± 0,51a 97,33 ± 0,33a 96,45 ± 0,39a 99,17 ± 1,10a 97,27 ± 1,10b 96,20 ± 1,06b 95,27 ± 1,10b 94,00 ± 1,00b 98,52 ± 0,51a 96,21 ± 0,51c 95,86 ± 0,52b 95,00 ± 0,71b 94,36 ± 1,91b Giá trị = trung bình ± độ lệch chuẩn. Các trung bình trong cùng một hàng có cùng ký tự chỉ sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). IV. THẢO LUẬN Các thông số môi trường ương trong thí nghiệm này là phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cá chẽm. Nhiệt độ tối ưu nằm trong khoảng 26 - 300C, độ mặn trong mức 28 - 33‰ và pH tối ưu ở 7,90 – 8,10 (Davis, 1985; Kungvankij và ctv., 1986). Độ kiềm thích hợp trong khoảng 80 – 120 mg CaCO3/L, hàm lượng DO > 4 mg/L. Trong khi hàm lượng NH4/NH3 < 0,5 mg/L và NO2- < 1 mg/L (Rimmer và Russell, 1998; Nguyễn Chung, 2006). Sự khác nhau về tĕng trưởng chiều dài, khối lượng và tỷ lệ sống và FCR của cá chẽm có thể do chế độ chĕm sóc, thức ĕn nhưng phần lớn do mật độ nuôi (Nguyễn Duy Quỳnh Trâm & Nguyễn Khoa Huy Sơn, 2018). Đây là loài ĕn thịt và tạp ĕn, hơn nữa trong điều kiện nuôi có kiểm soát dẫn đến sự cạnh tranh giữa các cá thể dẫn đến tốc độ sinh trưởng không giống nhau và ĕn thịt đồng loại (Mackinnon, 1985; Sukumaran và ctv., 2011). Chính vì vậy, tĕng loại (Mackinnon, 1985; Sukumaran và ctv., 2011). Chính vì vậy, tĕng trưởng chiều dài, khối lượng và tỷ lệ sống của cá chẽm có xu hướng giảm và FCR có xu hướng tĕng theo chiều tĕng của mật độ từ 300 đến 700 con/m3. Các xu hướng trong thử nghiệm này phù hợp với một số nghiên cứu đã được công bố trước đây. Theo Daet (2019), sau 90 ngày ương trong lồng lưới, cá có chiều dài và khối lượng trung bình lần lượt là 3,81 cm và 3,54 g/con đạt tĕng trưởng cao nhất với 13,81 cm và 152,34 g/con ở mật độ 10 con/m3; kế đến là 13,53 cm và 148,68 g/con ở mật độ 15 con/m3; thấp nhất ở mật độ 25 con/m3 với 11,39 cm và 113,91 g/ con. Cũng theo tác giả này, tỷ lệ sống giảm từ 87% - 47% và FCR tĕng 33,97 – 66,55 khi tĕng 3.5. Tỷ lệ chuyển đổi thức ĕn Tỷ lệ chuyển đổi thức ĕn của cá chẽm ở các nghiệm thức mật độ khác nhau được thể hiện ở Bảng 5. Theo đó, nghiệm thức D300 đạt thấp nhất và khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) so với hai nghiệm thức còn lại là 1,57 ± 0,02. Trong khi không có sự khác biệt (p > 0,05) giữa D500 (1,64 ± 0,01) và D700 (1,65 ± 0,02). Nghiệm thức FCR D300 D500 D700 1,57 ± 0,02a 1,64 ± 0,01b 1,65 ± 0,02b Giá trị = trung bình ± độ lệch chuẩn. Các trung bình trong cùng một cột có cùng ký tự chỉ sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 40 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II mật độ từ 10 – 25 con/m3. Thời gian ương kéo dài, tỷ lệ cho ĕn 10% trong 60 ngày đầu và 5% ở 30 ngày cuối, thức ĕn ở dạng chìm, hàm lượng protein < 39% và tỷ lệ phân đàn lớn, hiện tượng ĕn nhau đã dẫn đến tỷ lệ sống thấp và FCR cao. Sau 60 ngày ương trên bể composite, từ chiều dài 4,97 cm, cá chẽm đạt chiều dài 10,09 cm, tốc độ tĕng trưởng chiều dài 0,08 cm/ngày ở mật độ 500 con/m3 so với mật độ 700 và 900 con/m3 (Nguyễn Duy Huỳnh Trâm và Nguyễn Khoa Huy Sơn, 2018). Cũng theo tác giả này, từ 2,72 g/con đạt 11,7 g/con (500 con/m3) và thấp nhất ở mật độ 900 con/m3 (10,24 g/con); tốc độ tĕng trưởng khối lượng đạt cao nhất ở mật độ thấp (0,11 – 0,20 g/con) so với mật độ cao (0,08 – 0,20 g/con). Tỷ lệ sống cũng giảm từ 99,0% xuống còn 73,0% khi tĕng mật độ từ 500 lên 900 con/m3 theo nghiên cứu trên. Theo Erlinda (2014), sau 62 ngày ương trong hệ thống tuần hoàn, từ 3,45 cm và 0,69 g/con cá đạt 8,13 cm và 8,06 g/con ở mật độ 4 con/l; 8,0 cm và 7,23 g/con ở 2 con/l và thấp nhất ở mật độ 8 con/l với 7,58 cm chiều dài và 5,86 g/con khối lượng. Tỷ lệ sống giảm từ 71,42 – 47,32% và FCR tĕng từ 1,29 – 1,42 theo chiều tĕng mật độ từ 2 – 8 con/l (Erlinda, 2014). Theo Lý Vĕn Khánh và ctv., (2010), nghiên cứu ương cá chẽm với các loại thức ĕn khác nhau (thức ĕn công nghiệp, protein > 37,8%; ốc bưu vàng, protein < 40,8%; cá tạp, protein > 74,6%) trên bể 200 l với mật độ 30 con/bể, sau 6 tuần nuôi, từ cỡ 3,39 cm cá đạt 7,70 cm. Trong một nghiên cứu khác của Hoàng Tùng và ctv., (2007), sau 45 ngày ương bằng mương nổi đặt trong ao đất với mật độ 3 con/l, từ cá có chiều dài thân cỡ 1,5 -2,0 cm và 2,36 g/ con về khối lượng đạt được 10,0 cm và 16,36 g/ con; tốc độ tĕng trưởng chuyên biệt khối lượng là 4,66 %/ngày; tỷ lệ sống thấp (53,4%) và FCR (2,8) cao do cá bị Caligus sp. ký sinh ở mang và thân, chết rải rác trong thời gian ương và sử dụng hydroperoxide (H2O2) nồng độ 150 ppm trong 25 phút để tắm cá. Theo Kailasam và ctv., (2002), tỷ lệ sống cá chẽm đạt 65% ở mật độ 20 và 30 con/l, cao hơn ở các mật độ thấp hơn. Cá chẽm được ương ở mật độ thấp trong ao có thể đạt 20 – 30 mm so với 10 mm ở mật độ cao sau 3 tuần (Rutledge & Rimmer, 1991). Cũng theo tác giả này, tốc độ tĕng trưởng lên tới 3,8 mm/ ngày và tốc độ tĕng trưởng đặc biệt lên tới 28%/ ngày khi ương ở mật độ thấp. Theo Kungvankij và ctv., (1986), cá chẽm giống cỡ 1,0 – 2,5 cm được ương trong trong lồng ở sông, vùng cửa sông hoặc trong ao, sau 30 – 45 ngày có thể đạt 5 – 10 cm. Mặc dù có sự khác biệt về chiều dài và khối lượng, nhưng tỷ lệ phân đàn của cá chẽm ở các mật độ trong nghiên cứu này không lớn hay nói cách khác là sự đồng đều về kích cỡ cao. Điều này dẫn đến việc không cần phải lọc phân cỡ cá theo định kỳ, nhưng vẫn đảm bảo được tĕng trưởng tốt và tỷ lệ sống cao. Trong thực tế sản xuất, việc lọc phân cỡ cá khi ương ở mật độ cao nhằm hạn chế tình trạng ĕn nhau làm giảm tỷ lệ sống đóng vai trò rất quan trọng, tuy nhiên tốn nhiều công sức và gây một số tác động không tốt đến cá như: tình trạng stress, trầy xước cơ thể hay thậm chí là lây truyền bệnh. Do đó, việc ương cá ở các mức mật độ cao hơn so với thí nghiệm này cần cân nhắc tỷ lệ phân đàn cũng như thời gian lọc phân cỡ cá. Bên cạnh mật độ ương, độ mặn cũng ảnh hưởng đến tốc độ tĕng trưởng của cá chẽm. Theo Sen và ctv., (2019), ương cá chẽm ở giai đoạn cá hương với mật độ 50 con/m3 trong 56 ngày ở các mức độ mặn tương ứng là 10, 20 và 30‰. Kết quả là khối lượng cơ thể (60,4 – 49,8 g/con), tốc độ tĕng trưởng khối lượng tuyệt đối (3,73 – 3,34%) giảm và FCR (1,41 – 1,53) tĕng theo chiều tĕng của độ mặn. Tuy nhiên, trong thử nghiệm này, độ mặn khi ương là khá cao (32,5 – 32,6‰) nhưng vẫn đảm bảo tốc độ tĕng trưởng và FCR ở mức tốt. Điều này có ý nghĩa kinh tế quan trọng đối với các cơ sở sản xuất giống ở vùng có độ mặn cao, không thể dùng nước ngọt để hạ độ mặn. V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Tĕng trưởng về chiều dài, khối lượng cũng như tỷ lệ sống của cá chẽm có xu hướng giảm dần khi mật độ tĕng. Trong thử nghiệm này, D300 cho thấy tĕng trưởng về chiều dài 10,71 ± 0,03 cm; khối lượng 10,44 ± 0,09 g/con; tỷ lệ 41TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II sống 96,45 ± 0,39% và tỷ lệ chuyển đổi thức ĕn 1,57 ± 0,02 tốt nhất và khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) so với nghiệm thức D500 (9,47 ± 0,11 cm; 9,68 ± 0,09 g/con; 94,00 ± 1,00%; 1,64 ± 0,01) và D700 (9,26 ± 0,04 cm; 9,29 ± 0,18 g/con; 94,36 ± 1,91%; 1,65 ± 0,02). Các kết quả này cho thấy việc ương cá chẽm trên bể composite, ở kích cỡ cá dưới 5 cm thì nên ương ở mật độ cao trên 700 con/m3, khi cá đạt kích cỡ trên 5cm thì nên giảm mật độ ương còn 300 - 500 con/m3 sẽ mang lại hiệu quả và nên được áp dụng rộng rãi trong các cơ sở sản xuất giống cá chẽm. Bên cạnh đó, tỷ lệ phân đàn và thời gian phân cỡ khi ương ở các mật độ cao hơn cần được thảo luận thêm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Chung, 2006. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi cá chẽm. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tp. Hồ Chí Minh, 2006. Trần Ngọc Hải, Lý Vĕn Khánh, Lê Quốc Việt, Cao Mỹ Án và Đinh Minh Trường, 2013. Nghiên cứu phát triển kỹ thuật nuôi cá chẽm (Lates calcarifer) trong ruộng, ao và lồng ở vùng nước lợ và ngọt tỉnh Hậu Giang. Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học đề tài cấp tỉnh. Khoa thủy sản, trường đại học Cần Thơ. Lý Vĕn Khánh, Cao Mỹ Án và Trần Ngọc Hải, 2010. Ảnh hưởng của các loại thức ĕn lên tĕng trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790). Tạp chí Khoa học 2010 (16a): 81 – 89. Nguyễn Duy Quỳnh Trâm và Nguyễn Khoa Huy Sơn, 2018. Ảnh hưởng của mật độ nuôi đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch, 1790) giống cỡ 5 – 10 cm ương trong bể composite. Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 127 (3A): 151 - 160. Hoàng Tùng, Lưu Thế Phương và Huỳnh Kim Khánh, 2007. Thử nghiệm ương cá chẽm (Lates calcarifer) hương lên giống bằng mương nổi đặt trong ao đất. Tạp chí Khoa học – Công nghệ Thủy sản 1: 12 – 18. Tài liệu tiếng Anh Daet, I., 2019. Study on culture of sea bass (Lates calcarifer, Bloch, 1790) inhapa-in-pond environment. Earth and Environment Science, 230: 1 – 8. Davis, T.L.O., 1985. Seasonal changes in gonad maturity, and abundance of larvae and early juveniles of barramundi (Lates calcarifer Bloch, 1970) in Van Dieman Gulf and the Gulf of Carpentaria. Australian Journal of Marine and Freshwater Research 36: 177-190. Erlinda, S. G., 2014. The influence of different stocking densities on the performance and behavior among the hatchery reared sea bass (Lates calcarifer Bloch, 1970) juveniles in recirculating system. Animal Biology & Animal Husbandry International Journal of the Bioflux Society 8 (2): 125 – 133. Kailasam, M., Thirunavukkarasu, A.R., Abraham, M. and Kishore, P., 2002. Influence of size variation and feeding on cannibalism of Asian seabass Lates calcarifer Bloch, 1970 during hatchery rearing phase, Indian Jourrnal of Fisheries 49 (2): 107–113. Kungvankij, P., Tiro, L.B., Pudadera, B.J. & Potestas, I.O., 1986. Biology and Culture of Sea Bass (Lates calcarifer). Network of Aquaculture Centres in Asia Training Manual Series No. 3. Food and Agriculture Organization of the United Nations, and Southeast Asian Fisheries Development Centre. Mackinnon, M.R., 1985. Barramundi breeding and culture in Thailand, Queensland Dept of Primary Indus, Study Tour Report, Songkla, Thailand. Rimmer, M.A. and Russell, D.L., 1998. Aspects of the biology and culture of Lates calcarifer, In: De Silava, S.S. (ed) Tropical Marineculture, Academic Press, USA. Rutledge, W.P. & Rimmer, M.A., 1991. Culture of larval sea bass Lates calcarifer (Bloch) in saltwater rearing ponds in Queensland, Autralia. Asian Fisheries Science 4: 443 – 448. Sen, S., Atsumu, T., Pean, S., Torbjörn, L., Andrew, C.B., Chau, T.D. & Anders, K., 2019. Growth performance of fry and fingerling Asian Seabass (Lates calcarifer) from Cambodian brood stock reared at different salinities. Livestock Reasearch for Rural Development 31: 1 – 8. Sukumaran, K., Thirunavukkarasu, A.R., Kailasam, M., Sundaray, K.J., Subburaj R. & Thiagarajan, G., 2011. Effect of stocking density on size heterogeneity and sibling cannibalism in Asian seabass Lates calcarifer (Bloch, 1790) larvae. Indian Jourrnal of Fisheries 58 (3): 145–147 42 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II REARING SEA BASS FINGERLINGS (Lates calcarifer Bloch, 1790) WITH TOTAL LENGTH OF 3-10 cm IN COMPOSITE TANK AT DIFFERENT DENSITY Tran Van Nhien 1*, Nguyen Xuan Hung1, Nguyen Van Luong1, Nguyen Huu Thanh1 ABSTRACT This study was conducted to determine the appropriate density for rearing sea bas fingerlings (Lates calcarifer Bloch, 1790) with total length of 3-10 cm in 10m3 composite tanks. The experiment was designed using a completely randomized design (CRD) with 3 treatments and 3 replicates for different densities: 300 individuals per m3 (D300), 500 individuals per m3 (D500) and 700 individuals per m3 (D700). Initial length and weight of sea bass fingerlings are 3.50 ± 0.01 cm and 1.52 ± 0.01 g respectively. The rearing regime is applied according to the routine protocol. After 45 days of rearing, the water parameters in all treatments were in the suitable range for the growth of sea bass fingerlings. The fish in treatment D300 showed the best length (10.71 ± 0.03 cm), weight (10.44 ± 0.09 g/individual), survival rate (96.45 ± 0.39%), feed conversion ratio (1.57 ± 0.02) and was significantly different compared to treatments D500 (mean body length = 9.47 ± 0.11 cm; mean weight = 9.68 ± 0.09 g/individual; survival rate = 94.00 ± 1.00%; FCR = 1.64 ± 0.01) and D700 (mean body length = 9.26 ± 0.04 cm; mean weight = 9.29 ± 0.18 g/individual; survival rate = 94.36 ± 1.91%; FCR = 1.65 ± 0.02) respectively (p < 0.05). Rearing sea bass fingerlings with total length of 3 - 10 cm in composite tanks with a density of over 700 individuals per m3 when the fish size is less than 5 cm and 300 - 500 individuals per m3 when they reach the size of over 5 cm should be commonly applied. Besides, rate of subdivision of fish size and granding time for rearing with higher density should be considered. Keywords: density, Lates calcarifer, sea bass. 1 Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: trannhien1995@gmail.com Người phản biện: TS. Phan Thanh Lâm Ngày nhận bài: 28/10/2019 Ngày thông qua phản biện: 19/11/2019 Ngày duyệt đĕng: 25/12/2019 Người phản biện: TS. Trần Thế Mưu Ngày nhận bài: 28/10/2019 Ngày thông qua phản biện: 20/11/2019 Ngày duyệt đĕng: 25/12/2019
File đính kèm:
- thu_nghiem_uong_ca_chem_giong_lates_calcarifer_bloch_1790_co.pdf