Tài sản thương hiệu định hướng sinh viên: Nghiên cứu với trường hợp khoa Marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội
TÓM TẮT
Tại Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về tài sản thương hiệu định hướng
sinh viên cho các trường đại học tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đề cập chính
thức đến nội dung và sự đánh giá tài sản thương hiệu cho các chuyên ngành sâu.
Bài báo tập trung nghiên cứu đánh giá tài sản thương hiệu định hướng cảm nhận
sinh viên của khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Dựa trên
cơ sở lý thuyết về các yếu tố cơ bản quan trọng cấu thành nên tài sản thương hiệu
bao gồm: Sự nhận biết thương hiệu, các liên tưởng thương hiệu, sự trung thành
với thương hiệu, chất lượng cảm nhận. Nghiên cứu định lượng chính thức được
tiến hành dưới hình thức phát phiếu khảo sát với hơn 400 phiếu hữu dụng được
đưa vào xử lý và phân tích. Kết quả cho thấy cả bốn yếu tố trên đều ảnh hưởng
đến tài sản thương hiệu của khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn
Hà Nội, với những mức độ ảnh hưởng khác nhau
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài sản thương hiệu định hướng sinh viên: Nghiên cứu với trường hợp khoa Marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội
, có 421 bảng câu hỏi hữu dụng được đưa vào xử lý và phân tích. Kích thước mẫu phù hợp khi sử dụng mô hình hồi quy: để phân tích hồi quy đạt được kết quả tốt nhất thì kích cỡ mẫu cần thỏa mãn: n > = 8p + 50 (với n là kích thước mẫu tối thiểu cần thiết và p là số biến quan sát độc lập trong mô hình) (Tabachnick & Fidell, 1996). Do ở trong nghiên cứu p = 14 nên mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu là n = 8.14 + 50 = 162. Nhưng do phương pháp chọn mẫu của nghiên cứu là phương pháp chọn mẫu thuận tiện nên tác giả đã phát đi 500 bảng hỏi được chia đều cho các sinh viên marketing tại ba trường đại học trên, tuy nhiên thu về được 421 bảng câu hỏi đạt yêu cầu. - Bảng câu hỏi do đối tượng tự trả lời là công cụ chính để thu thập dữ liệu định lượng. Bên cạnh đó, phỏng vấn, quan sát, phân tích văn bản, thảo luận thay đôi được thực hiện đối với phương pháp định tính. - Phương pháp chọn mẫu trong cuộc nghiên cứu này là phương pháp thuận tiện. 4. KẾT QUẢ Kiểm định thang đo Kiểm định thang đo đối với tài sản thương hiệu theo cảm nhận của sinh viên khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội được thực hiện thông qua hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha với kết quả như bảng 2. Bảng 2. Kiểm định thang đo Yếu tố Biến quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Tương quan biến điều chỉnh - tổng Cronbach’s Alpha nếu loại biến Nhận biết thương hiệu (NB) Cronbach’s Alpha=0,808 NB1 3,52 0,920 0,681 0,731 NB2 3,94 0,892 0,542 0,799 NB3 3,57 0,832 0,662 0,743 NB4 3,49 0,868 0,620 0,761 Liên tưởng thương hiệu (LT) Cronbach’s Alpha=0,781 LT1 3,26 1,127 0,531 0,762 LT2 3,45 1,035 0,718 0,654 LT3 3,91 0,842 0,478 0,778 LT4 3,56 1,027 0,638 0,699 Trung thành thương hiệu (TT) Cronbach’s Alpha=0,774 TT1 3,14 1,025 0,531 0,715 TT2 2,82 1,098 0,594 0,716 TT3 3,21 1,224 0,531 0,748 Chất lượng cảm nhận (CL) Cronbach’s Alpha=0,867 CL1 2,81 1,186 0,706 0,738 CL2 2,67 1,357 0,755 0,706 CL3 2,96 1,346 0,721 0,724 Tài sản thương hiệu khoa marketing (CBBE) Cronbach’s Alpha=0,857 CBBE 1 2,67 1,987 0,785 0,647 CBBE2 3,03 1,875 0,743 0,753 Phương pháp Cronbach’s Alpha này cho phép người phân tích loại bỏ những biến không phù hợp và hạn chế các biến rác trong mô hình nghiên cứu. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008) cùng nhiều nhà nghiên cứu đồng ý rằng khi hệ số Cronbach’s Alpha có giá trị từ 0,8 đến gần 1,0 là thang đo tốt, từ 0,7 đến gần 0,8 là sử dụng được. Như vậy với kết quả trên cho chúng ta thấy các biến quan sát đều thỏa mãn điều kiện về hệ số Cronbach’s Alpha nếu loại biến, đó là những thang đo tốt, có tương quan chặt chẽ với nhau để đo lường tài sản thương hiệu. Phân tích hồi quy tuyến tính bội và kiểm định giả thuyết Phân tích hệ số tương quan nhằm xem xét mối quan hệ tương quan tuyến tính giữa biến phụ thuộc và từng biến độc lập, cũng như mối quan hệ tương quan giữa từng biến độc lập với nhau. Kết quả ma trận hệ số tương quan có mức ý nghĩa α ≤ 0,05 và các hệ số tương quan giữa các biến dao động trong khoảng từ 0,342 đến 0,776 (thỏa mãn điều kiện -1 ≤ r ≤ 1) cho thấy 4 biến độc lập tương quan tuyến tính khá chặt chẽ với biến phụ thuộc là tài sản thương hiệu. ECONOMICS-SOCIETY Số 52.2019 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 115 Phân tích hồi quy tuyến tính bội về mối quan hệ giữa các nhân tố của tài sản thương hiệu có hệ số R2 điều chỉnh là 0,663, có nghĩa là mô hình hồi quy tuyến tính bội đã xậy dựng phù hợp với tập dữ liệu đạt mức 66,3%. Kết quả phân tích phương sai chỉ ra giá trị kiểm định F = 112,096, với mức ý nghĩa sig. là 0,000 (< 0,005), điều này hoàn toàn đảm bảo về mặt thống kê, chứng tỏ mô hình này phù hợp với tập dữ liệu và đảm bảo độ tin cậy. Mô hình mối tương quan hồi quy tuyến tính bội các nhân tố biểu thị thông qua hệ số hổi quy chuẩn hóa của các biến độc lập tác động cùng chiều biến phụ thuộc theo thứ tự từ cao xuống thấp đó là: Nhận biết thương hiệu β = 0,318, liên tưởng thương hiệu β = 0,275, trung thành thương hiệu β = 0,223, chất lượng cảm nhận β = 0,176. Kết quả cũng cho thấy, hệ số độ chấp nhận thấp từ 0,601 đến 0,793 và giá trị từ 1,831 đến 2,347, như vậy không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến và không có mối tương quan chặt chẽ với các biến độc lập. Kết quả phân tích cũng chỉ ra mô hình hồi quy phù hợp với các dữ liệu và các biến có ý nghĩa về mặt thống kê, kết luận là các giả thuyết đặt ra đều được chấp nhận. Như vậy, sau khi phân tích hồi quy, kết quả cho thấy mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập được thể hiện qua phương trình sau: CBBE = 0,318NB + 0,275LT + 0,176CL + 0,223 TT 5. THẢO LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Theo như kết quả thu được: Nhận biết thương hiệu, liên tưởng thương hiệu, lòng trung thành thương hiệu và chất lượng cảm nhận đều là các yếu tố cấu thành tài sản thương hiệu dưới góc nhìn, cảm nhận của các bạn sinh viên chuyên ngành marketing. Các giả thuyết H1, H2, H3, H4 đều được chấp nhận. Điều này hoàn toàn phù hợp. Kết quả thu được cho ta biết để có một sự thay đổi tài sản thương hiệu cần 0,318 sự nhận biết thương hiệu tức 0,318 khả năng của một khách hàng có thể nhận ra hoặc nhớ đến thương hiệu như một yếu tố cấu thành của tài sản thương hiệu. Để có 1 sự thay đổi tài sản thương hiệu cần 0,275 sự liên tưởng thương hiệu tức 0,275 bất cứ điều gì trong trí nhớ người tiêu dùng khi nghĩ về thương hiệu. Để có 1 sự thay đổi tài sản thương hiệu cần 0,223 sự trung thành thương hiệu tức 0,223 sự gắn bó mà khách hàng có đối với một thương hiệu. Để có 1 sự thay đổi tài sản thương hiệu cần 0,176 chất lượng cảm nhận tức 0,176 cảm nhận của sinh viên về chất lượng hay tính vượt trội tổng thể của khoa marketing trong mối quan hệ so sánh với các khoa marketing của các trường đại học cạnh tranh khác. Nghiên cứu đã chứng minh nhận biết thương hiệu là yếu tố cấu thành và tác động mạnh nhất lên tài sản thương hiệu của khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Vì vậy những nhà quản lý cần tập trung đẩy mạnh hệ thống nhận diện thương hiệu cho khoa chuyên ngành của mình. Mặc dù các khoa marketing tại các trường đã có hệ thống nhận diện thương hiệu một cách rõ ràng nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa, tích cực hơn nữa, bằng những biện pháp thiết thực giúp cho cả sinh viên và phụ huynh chọn trường cho con em mình dễ tiếp cận hơn. Giúp cho họ dễ dàng biết đến khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội, họ có thể phân biệt đươc với các khoa khác tại các trường đại học khác. Cảm nhận được danh tiếng mà trường đang có. Xây dựng cho sinh viên niềm tự hào khi được khoác trên mình bộ đồng phục của khoa, đây là cách tốt nhất khi người học tự hào khi nói đến trường học của mình với người khác, với các em học sinh phổ thông khi các em chọn cho mình một chuyên ngành để theo đuổi. Tiếp đó là đến yếu tố liên tưởng thương hiệu, trung thành thương hiệu và cuối cùng là chất lượng cảm nhận. Như chúng ta đã biết liên tưởng thương hiệu đó là bất cứ điều gì trong trí nhớ người tiêu dùng khi nghĩ về thương hiệu. Đây là yếu tố có tác động mạnh thứ hai sau nhận biết thương hiệu đến tài sản thương hiệu theo cảm nhận của sinh viên với khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Đó là khi nhắc đến khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội họ liên tưởng tới một môi trường giáo dục tốt, chương trình học đa dạng, cơ sở vật chất đảm bảo và giáo viên dày dặn kinh nghiệm Muốn được như vậy thì các nhà quản lý cần phải lưu tâm đến việc: Đầu tư ngân sách vào xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng môi trường học tập tốt. Với một môi trường học tập tốt, sinh viên có thể phát huy hết khả năng và trí sáng tạo. Từ đó, sinh viên có thể nhận thấy được chuyên ngành mà mình đang theo học đặt lợi ích của sinh viên lên hàng đầu. Hoàn thiện và phát triển các chương trình đào tạo cũng đóng một vai trò khá quan trọng. Cần phải có sự kết hợp giữa khoa chuyên ngành và doanh nghiệp để biết đến nhu cầu đào tạo bên ngoài để đào tạo sao cho phù hợp sinh viên ra trường, ứng dụng được kiến thức được đào tạo vào công việc một cách hiệu quả nhất, cảm nhận được những điều đó họ có thể trở lại học tiếp tục lên cao học hay giới thiệu những người quen theo học và hãy tin tưởng vào chất lượng đào tạo của khoa chuyên ngành marketing đó. Tạo ra thế mạnh đặc trưng riêng, để từ đó tạo nên danh tiếng cho khoa marketing. Các thế mạnh mà các khoa marketing tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội có thể xây dựng như: Chất lượng đầu ra; số lượng sinh viên làm trong các công ty, tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp; thành tích trong nghiên cứu khoa học; hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao mạnh, sôi nổi; ý thức và kỷ luật của sinh viên... Từ kết quả nghiên cứu cho thấy cũng cần quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên nhà trường bằng cách tổ chức các khóa tập huấn và các chương trình học nâng cao kiến thức, giúp cho giảng viên có cơ hội phát huy kiến thức của mình. Đó là điều sinh viên cũng rất quan tâm. XÃ HỘI Tạp chí KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ● Số 52.2019 116 KINH TẾ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Aaker D., 1996., Building Strong Brands. 1st Ed., Free Press, New York. [2]. Aaker, D.A., 1991. Managing Brand Equity: Capitalizing on the Value of a Brand Name. The Free Press, New York, USA. [3]. Amaretta, Melinda and Evelyn Hendriana, 2011. The Effect of Marketing Communications and Price Promotion to Brand Equity. The 2nd International Research Symposium in Service Management. Yogyakarta, Indonesia, hal. 26-30. [4]. Atilgan, E., Aksoy, S., and Akinci, S., 2005. Determinants of the brand equity: A verification approach in the beverage industry in Turkey. Marketing Intelligence and Planning, Vol. 23, No. 2/3, pp. 237-248. [5]. Atilgan, E., S. Akinci, S. Aksoy, and E. Kaynak, 2009. Customer-based brand equity for global brands: A multinational approach. Journal of Euromarketing 18:115–132. [6]. Buil, I., de Chernatony, L., & Martinez, E., 2008. A cross-national validation of the customer-based brand equity scale. Journal of Product & Brand Management, 17(6), 384-92. [7]. de Chernatony, L., Harris, F.J. and Christodoulides, G., 2004. Developing a brand performance measure for financial services brands. Services Industries Journal, 24, 2, pp.15-33. [8]. Farquhar, P.H. and Herr, P.M., 1993. The dual structure of brand associations. Brand Equity & Advertising, pp. 263-77. [9]. Farquhar, P.H., Han, J.Y. and Ijiri, Y., 1991. Recognizing and Measuring Brand Assets. ReportNumber 91-119, Marketing Science Institute, Cambridge, MA. [10]. Keller, K.L., 1993. Conceptualizing, Measuring, Managing Customer- Based Brand Equity. Journal of Marketing, Vol. 57 (Jan 1993), 1-22. [11]. Kim KH, Kim KS, Kim DY, Kim JH, Kang SH, 2008a. Brand equity in hospital marketing. J. Bus. Res., 61(1): 75-82. [12]. Kim, W.G., and Kim, H., 2004. Measuring customer-based restaurant brand equity: Investigating the relationship between brand equity and firms' performance. Cornell Hotel and Restaurant Administration Quarterly, Vol. 45, No. 2, pp. 115-131. [13]. Martin, G.S. and Brown, T.J., 1990. In search of brand equity: the conceptualization and measurement of the brand impression construct. in Childers, MacKenzie, Leigh, Skinner, Lynch Jr, Heckler, Gatignon, Fisk and Graham, (Eds), Marketing Theory and Applications, Vol. 2, American Marketing Association, Chicago, IL, pp. 431-8. [14]. Netemeyer, R.G., Krishnan, B., Pullig, C., Wang, G., Yagci, M., Dean, D., Ricks, J. and Wirth, F., 2004. Developing and validating measures of facets of customer-based brand equity. Journal of Business Research, Vol. 57 No. 2, pp. 209-24 [15]. Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2002. Các thành phần giá trị thương hiệu và đo lường chúng trong thị trường hàng tiêu dùng tại Việt Nam. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. [16]. Nguyễn Tiến Dũng, 2017. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị thương hiệu của một số trường đại học công lập ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại Hà Nội. Luận án tiến sỹ, Trường đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội [17]. Nguyễn Trường Sơn và Trần Trung Vinh, 2011. Đo lường giá trị thương hiệu: Điều tra thực tế tại thị trường ô tô Việt Nam. Tạp chí Khoa học và công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Số 3(44). [18]. Nunnally J.C. & Burnstein, I.H., 1994. Psychometric Theory. 3rd, New York: McGraw-Hill. [19]. Pappu, R., Quester, P.G.& Cooksey, R.W., 2005. Consumer-based brand equity: improving the measurement - empirical evidence. Journal of Product & Brand Management, 14/3 (2005), pp. 143–154 [20]. Phạm Thị Minh Lý, 2014. Tài sản thương hiệu của trường đại học cảm nhận sinh viên: Nghiên cứu tại các trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 200, Tháng 02/2014, tr. 79-87 [21]. Simon, C.J. and Sullivan, M.W., 1993. The measurement and determinants of brand equity: a financial approach. Marketing Science, 12(1), pp.28-53 [22]. Srivastava R, Shocker AD., 1991. Brand equity: a perspective on its meaning and measurement. Working Paper Series, Report Number 91-124. Cambridge, MA: Marketing Science Institute. [23]. Vazquez, R., B. del Rio, and V. Iglesias, 2002. Consumer-Based Brand Equity: Development and Validation of a Measurement Instrument. Journal of Marketing Management 18(1/2):27–48. [24]. Villarejo, A.F., Sanchez, M.J., 2005. The impact of marketing communication and price promotion on brand equity. The Journal of Brand Management 12 (6), 431–444. [25]. Walfried Lassar, Banwari Mittal, Arun Sharma, 1995. Measuring customer‐based brand equity. Journal of Consumer Marketing, Vol. 12 Issue: 4, pp.11-19 [26]. Yoo B. & Donthu N., 2001. Developing and validating a multidimensional consumer-based brand equity scale. Journal of Business Research, Vol. 52(2001), pp. 1-14. [27]. Yoo B., Donthu N. & Lee S., 2000. An Examination of Selected Marketing Mix Elements and Brand Equity. Journal of the Academy of Marketing Science, Vol. 28(2), pp. 195-211 [28]. Zeithaml, Valarie A., 1988. Consumer perceptions of price, quality, and value: A means - end model and synthesis of evidence. Journal of Marketing, 52(July), 2 ‒ 22. [29]. Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2010. Giá trị cảm nhận về đào tạo Đại học từ góc nhìn sinh viên. Đề tài nghiên cứu khoa học. [30]. Hoàng Thị Phương Thảo, Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2010. Phát triển sự đo lường tài sản thươnghiệu trong thị trường dịch vụ. Đại học Kinh tế. [31]. th%C6%B0%C6%A1ng-hi%E1%BB%87u/4330-th%C6%B0%C6%A1ng- hi%E1%BB%87u-l%C3%A0-g%C3%AC,-%C4%91i%E1%BB%81u-g%C3%AC- l%C3%A0m-n%C3%AAn-th%C6%B0%C6%A1ng-hi%E1%BB%87u AUTHOR INFORMATION Vu Thi Thu Ha Faculty of Business Management, Hanoi University of Industry
File đính kèm:
- tai_san_thuong_hieu_dinh_huong_sinh_vien_nghien_cuu_voi_truo.pdf