Tác phẩm điêu khắc tự thuật Phật giáo thuộc văn hóa Óc Eo tại bảo tàng An Giang
Chứng cứ tìm thấy ở các di tích khảo cổ học thuộc văn hóa Óc Eo tại khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long đã minh chứng cho sự tồn tại của cảng thị Phù Nam
sầm uất vào những thế kỷ đầu Công nguyên. Cảng thị Phù Nam đã tạo điều kiện
cho nền kinh tế và văn hóa trong vùng phát triển vượt bậc, nhờ thu hút được giới
thương nhân quốc tế tìm đến buôn bán và lập nghiệp. Bài viết thông qua giải mã
nội dung, ý nghĩa tiếu tượng học thể hiện trên tác phẩm điêu khắc tự thuật Phật
giáo của trụ ốp tường Lạc Quới thuộc văn hóa Óc Eo trưng bày tại Bảo tàng An
Giang tìm hiểu, so sánh với nền nghệ thuật khác trong vùng để nhận định niên
đại của nó cũng như chỉ ra sự giao lưu văn hóa liên vùng trong khảo cổ học Óc
Eo. Đồng thời góp phần tìm hiểu thêm quá trình ảnh hưởng và tiếp biến các yếu
tố văn hóa ngoại lai của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long đối với các quốc gia
ở Nam Á, Đông Nam Á và Đông Á trong thiên niên kỷ thứ I Công nguyên.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác phẩm điêu khắc tự thuật Phật giáo thuộc văn hóa Óc Eo tại bảo tàng An Giang
vati đức Phật ngồi hoặc đứng tác phẩm Tự thuật Phật giáo chiếc trên tòa sen hoặc trong thế ngồi vương TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 47 tọa, hai chân buông thõng xuống gọi là (2019: 2), Dambulla là quần thể di tích bhadrasana (Prairiksh, 2012: 45-95). Phật giáo trong hang động (Buddhist Về tư thế bhadrasana, Nicolas Revire cave-temple complex) thành lập vào (2016: i) cho rằng tư thế này được tìm khoảng thế kỷ I trước CN (ibid.). thấy lần đầu tiên trong nghệ thuật Các bức tranh tường trong hang động Phật giáo Gandhara ở Bắc Ấn và Dambulla chủ yếu minh họa các chủ Andhra Pradesh ở Nam Ấn có niên đề tôn giáo như hình ảnh đức Phật và đại khoảng thế kỷ III-IV trước CN các sự kiện đã diễn ra trong suốt cuộc (sớm nhất), và tìm được tiếp tại đời của đấng Giác Ngộ cho đến khi Sarnath ở Trung Ấn với niên đại ngài nhập Niết bàn (DoA-CCF, 2019: khoảng thể kỷ V CN. Đây là tư thế khi 27-29). đức Phật thuyết pháp với hai tay thủ Kiến trúc của hang động Phật giáo ấn quyết vitarka. Theo Revire Nicolas này do vua Valagamba sáng lập vào (2011: 31) tư thế bhadrasana phổ biến khoảng thế kỷ I trước CN (DoA-CCF, ở Đông Nam Á lục địa, cụ thể là vùng 2019: 24), có quy mô lớn nhất và công Đồng bằng sông Cửu Long, trong giai phu nhất tại quần thể Dambulla. Niên đoạn từ thế kỷ VII đến thể kỷ IX. Ở Óc đại của các bức tranh này được đoán Eo, tư thế bhadrasana đã được định vào khoảng thế kỷ I trước CN Malleret tìm thấy ở làng Sơn Thọ, tỉnh (DoA-CCF, 2019: 2). Các bức tranh Trà Vinh(3), có niên đại vào khoảng tường tại Dambulla là sự tiếp nối nghệ nửa sau thế kỷ VII (1963, IV: 178-79, thuật Phật giáo từ di tích Ajanta thuộc pl.31). Có thể xem đó là minh chứng Ấn Độ, là điển hình truyền thống nghệ cụ thể về sự kế thừa truyền thống tạo thuật Phật giáo Nam Á nói chung, đặc hình bhadrasana tại Óc Eo trong thiên biệt là ở miền Nam Ấn Độ, Sri Lanka, niên kỷ thứ I CN. Như vậy, có thể các Myanmar và Thái Lan (DoA-CCF, nhân vật phụ trong phân cảnh 3 của 2019: ibid.). trụ ốp tường Lạc Quới được thể hiện Về ý tưởng sáng tạo và thủ pháp tạo ngồi trong tư thế bhadrasana. hình, những đặc điểm cần lưu ý trên Phật giáo ra đời ở Ấn Độ khoảng 500 bức tranh tường của Dambulla, đó là năm trước CN, để đánh dấu sự kiện hình tượng đức Phật được diễn tả lịch sử này có vô số các tác phẩm trong ánh hào quang bao quanh thân nghệ thuật đã được thực hiện nhằm thể khi ngài tọa thiền dưới cây bồ đề, tôn vinh đức Phật, chuyển tải tư tán cây được bố cục thành hình một tưởng Phật giáo đến nhiều quốc gia, chiếc lá bồ đề gắn liền vào hào quang, vì vậy mà Phật giáo đã hiện diện ở Sri trên chiếc ngai vuông, sử dụng thủ Lanka vào khoảng thế kỷ III trước CN, pháp vừa tả thực vừa cách điệu tạo và trở thành tôn giáo chính của các nên bố cục chặt chẽ. Đặc điểm tạo vương triều Sinhalese (Perera, 1988: hình này chỉ ra những nét tương đồng 3). Theo báo cáo của DoA-CCF(4) trong quy cách thể hiện hình tượng 48 NGUYỄN THỊ TÚ ANH – TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC TỰ THUẬT đức Phật của Dambulla và Lạc Quới. Lạc Quới với những dharmacakra của Điều này cho thấy, thủ pháp diễn tả nghệ thuật Amaravati thì đều chạm hình tượng đức Phật trên trụ ốp tường vuông vức, kích thước ngắn (trong khi Lạc Quới có thể đã tiếp nhận trực tiếp ba vòng tròn của cakra thì được chạm ý tưởng nghệ thuật từ Sri Lanka hay to hơn rất nhiều) đều có niên đại từ Nam Á, vì tác phẩm của Lạc Quới khoảng thế kỷ II đến thế kỷ III CN được chế tác trong thời điểm muộn (Knox, 1992: 163, Cat.88, Cat.89, Cat. hơn vài thế kỷ. 165). Về hình tượng chuyển pháp luân, theo Hình 7. Chuyển pháp luân, đá sa thạch, Pinna Indorf (2014: 273-79, 299-305) đường kính khoảng 25cm, tìm thấy tại bức chạm chuyển pháp luân tìm thấy tỉnh Nakhon Si Thammarat, Thái Lan tại di tích Óc Eo(5) có niên đại sớm, khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ VII so với các dharmacakra được phát hiện ở Đông Nam Á lục địa (Hình 6). Piriya Krairiksh (2012: 67-70) nhận định rằng những bức chạm dharmacakra của Dvaravati thuộc tông phái Theravada Nguồn: Bunchar Pongpanich. của Phật giáo Tiểu thừa (Hinayana). Chuyển pháp luân được thể hiện một Hình 6. Mảnh vỡ chuyển pháp luân thuộc cách giản lược trên trụ ốp tường Lạc văn hóa Óc Eo, sa thạch, đường kính Quới có nhiều nét tương đồng với một khoảng 25cm, thế kỷ VI đến thế kỷ VII số tác phẩm điêu khắc đang được bảo quản trong ngôi chùa Phật giáo Therevada ở Nakhon Si Thammarat của Thái Lan(6) (Hình 7). Các chuyển pháp luân này đã được Phanuwat Ueasaman (2019: 34-54) tổng hợp và giới thiệu sơ lược, theo đó tác giả cho rằng các dharmacakra phát hiện tại Nguồn: Bảo tàng Lịch sử TPHCM. vùng này có niên đại khoảng thế kỷ Từ đó có thể suy đoán rằng hình VII đến thế kỷ VIII. tượng dharmacakra/ cakrastamba trên Ở Thái Lan, các nhà khảo cổ học đã trụ ốp tường Lạc Quới cũng có niên phát hiện một số tác phẩm điêu khắc đại thế kỷ VI-VII, tương đương với giai dharmacakra. Tại hang Khao Khuha ở đoạn sớm của các dharmacakra ở Kanchanadit, tỉnh Surat Thani có tác Đông Nam Á lục địa và nó cũng thuộc phẩm điêu khắc bằng đất nung mô tả Phật giáo Theravada (?). hình ảnh đức Phật trên trần hang. Ở So sánh phần trụ chống (stambha) của 13 ngôi đền dựng trong hang đá, tất dharmacakra thể hiện trên trụ ốp tường cả đều mang dấu ấn thực hành tín TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 49 ngưỡng Phật giáo Mahayana có niên trường tự nhiên và địa lý vào thời cổ đại trải dài từ cuối thế kỷ VI đến thế kỷ đại rất khó để sử dụng các loại vật liệu XI (Phanuwat Ueasaman, 2019: 39)... như đá và gạch trong quá trình xây Những phát hiện trên là chứng cứ dựng đền tháp, đã phản ảnh trình độ thuyết phục cho nhận định về mối giao sáng tạo và phát triển kỹ thuật của cư lưu thương mại và văn hóa mật thiết dân địa phương. Đặc biệt, việc áp giữa cư dân miền nam Thái Lan và cư dụng kỹ năng kết nối các cấu kiện dân Óc Eo lúc bấy giờ. bằng đá granite vào các kiến trúc 4.2. Vai trò của cảng thị Óc Eo gạch đã cho thấy một trình độ kỹ thuật trong mạng lƣới hải thƣơng liên xây dựng phát triển để thích nghi với vùng và những mối quan hệ nghệ môi trường thấp ẩm đặc thù của đồng thuật đa dạng bằng sông Mekong, là một sáng tạo nổi bật của cư dân bản địa (Hall, 1985: Theo Kenneth R. Hall (1985: 52-53), 65). Khang Thái và Chu Ứng (là nhà du hành Trung Hoa) cho biết “người Từ đó có thể lý giải cho sự hiện diện dân Phù Nam sống ở các thành phố của yếu tố nghệ thuật Phật giáo Sri có tường bao quanh cung điện và nhà Lanka, cũng như miền Nam Ấn Độ, ở Họ sống dựa vào nông nghiệp được thể hiện thông qua hình tượng Hệ thống cảng thị Óc Eo không chỉ đức Phật ngồi thiền định dưới tán cây quan trọng trong khu vực mà còn là bồ đề như đã xuất hiện trên trụ ốp hải cảng chính nơi các đội thương tường Lạc Quới thuộc khu vực Óc Eo. thuyền đều muốn dừng chân trong hải Thêm vào đó, các di tích Phật giáo ở trình quốc tế của họ, có thể cùng lúc miền Nam Thái Lan, có thể là một họ đã mang theo những thành tựu kỹ trong những đầu mối kết nối yếu tố thuật và nghệ thuật quốc tế đến vùng nghệ thuật Phật giáo Thái Lan vào đất Óc Eo này. Hall (1985: 65) xem nghệ thuật Phật giáo Óc Eo như đã xét các chứng cứ này và chỉ ra rằng, được chứng minh trong hình tượng các dấu vết kiến trúc còn lại là minh chuyển pháp luân của trụ ốp tường chứng về trình độ kỹ thuật của các Lạc Quới. kiến trúc sư địa phương, họ đã xây Việc nghệ thuật hóa tư tưởng Phật dựng những ngôi đền phỏng tạo theo giáo trong kinh Mahamaya để minh các kiến trúc tôn giáo phổ biến ở miền họa trên tác phẩm điêu khắc của trụ Nam và miền Trung Ấn Độ được xây ốp tường Lạc Quới, minh chứng cho bằng gạch và đá granite vào cuối thời việc bản địa hóa các yếu tố văn hóa kỳ Gupta khoảng thế kỷ V đến thế kỷ bên ngoài của cư dân địa phương. VI. Cũng nên lưu ý rằng, tư tưởng Phật Hơn nữa, việc phỏng tạo mô thức kiến giáo trong kinh Mahamaya được phổ trúc truyền thống của các ngôi đền Ấn biến rộng rãi ở Trung Hoa đương thời Độ tại khu vực Óc Eo, nơi có môi được biết qua bản dịch kinh này từ 50 NGUYỄN THỊ TÚ ANH – TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC TỰ THUẬT Phạn văn ra Hán văn vào thời Tiêu Tề trong nghệ thuật Dvaravati, như vậy khoảng cuối thế kỷ V, đồng đại với hai phải chăng nội dung và cách thể hiện pho tượng Phật Trung Hoa bằng đồng của trụ ốp tường Lạc Quới được gợi ý phát hiện tại Óc Eo đã nêu trên. Như trực tiếp từ nghệ thuật Phật giáo ở vậy phải chăng cư dân Óc Eo đã tiếp Nam Ấn và Sri Lanka? Nếu vậy, nội nhận tư tưởng của kinh Mahamaya dung điêu khắc của trụ ốp tường Lạc đến từ Trung Hoa? Do vậy mà các Quới có thể cung cấp những nhận yếu tố của tư tưởng Phật giáo Nam thức mới để tìm hiểu về bối cảnh hình Ấn, Sri Lanka và Trung Hoa được kết thành nghệ thuật Phật giáo Óc Eo hợp và nghệ thuật hóa trên trụ ốp trong thiên niên kỷ thứ I tại Đồng bằng tường Lạc Quới? sông Cửu Long. 5. TẠM KẾT Trụ ốp tường Lạc Quới cũng là một Trụ ốp tường Lạc Quới là tác phẩm minh chứng sinh động cho sự tương điêu khắc duy nhất được biết đến tác văn hóa liên vùng của cảng thị trong nghệ thuật tạo hình Phật giáo Phù Nam - Óc Eo, một trung tâm kinh đương thời, trong thiên niên kỷ thứ I tế - chính trị - văn hóa của cư dân Óc CN, bởi nó minh họa nội dung Eo, tọa lạc trên tuyến đường hải chương một trong kinh Mahamaya về thương kết nối giữa hai vùng đất Nam truyền thuyết Đức Phật thuyết pháp Á và Đông Á. Ba biểu tượng tư tưởng cho hoàng hậu Maya và chư thiên Phật giáo được kết hợp thể hiện trên trên trời Đao Lợi. Bức chạm này thể một tác phẩm tự thuật (narrative) hiện trực tiếp cảnh hoàng hậu Maya mang tính chất nghệ thuật thị giác và chư thiên cùng ngồi nghe giảng (visual art) bao gồm ba nội dung trong đạo. Trong khi, cũng bản kinh này, Kinh Mahamaya là một sáng tạo độc nhiều tác phẩm điêu khắc khác chỉ đáo của các tu sĩ và nghệ nhân Óc Eo. thể hiện chương hai nội dung Đức Tác phẩm này là minh chứng cho sự Phật giáng thế tại Sankassa từ trời tiếp thu rộng rãi các yếu tố nghệ thuật Đao Lợi hoặc chương ba chủ đề Đức tôn giáo từ Nam Ấn, Sri Lanka, Thái Phật thuyết pháp lần cuối cho hoàng Lan và Trung Hoa. Ngoài ra, các đặc hậu Maya trước khi ngài nhập Niết điểm nghệ thuật mang tính sáng tạo bàn. của tác phẩm độc đáo này đã được chắt lọc để trở thành cá tính đặc thù Nội dung tác phẩm điêu khắc tự thuật của nghệ thuật Óc Eo, chứng minh của trụ ốp tường Lạc Quới được diễn cho sự phát triển nổi trội của nền văn tả trong một bố cục theo chiều dọc, hóa này trong suốt thiên niên kỷ thứ I bố cục này tương tự những tác phẩm CN. tự thuật Phật giáo phổ biến trong nghệ thuật Amaravati vào những thế kỷ đầu CN và không hề thấy xuất hiện TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (271) 2021 51 CHÚ THÍCH (1) Số liệu từ Bảo tàng An Giang. (2) Theo trao đổi của Pinna Indorf, cựu giảng viên Khoa Kiến trúc, Đại học Quốc gia Singapore. (7) Bức tượng này hiện nay đang được trưng bày tại Phòng Nghệ thuật Óc Eo của Bảo tàng Lịch sử TPHCM. (8) DoA-CCF: Department of Archaeology-Central Cultural Fund; Ministry of Housing, Construction and Cultural Affairs; The Democratic Socialist Republic of Sri Lanka. (11) Hiện nay mảnh vỡ chuyển pháp luân này được bảo quản trong kho của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại. (12) Trao đổi cá nhân với Bunchar Pongpanich (vào tháng 3 năm 2020). Theo ông, có nhiều hiện vật tương tự đã được phát hiện vài năm trước và được đưa về bảo quản tại các chùa Phật giáo không xa địa điểm được tìm thấy. Tính đến hiện tại, có ba tỉnh của Thái Lan gồm Nakhon Si Thammasat, Pattani và Surat Thani (với di tích Khao SriVichai) tìm thấy loại hình điêu khắc này. Rất tiếc, Bunchar Pongpanich chỉ là một tín đồ Phật giáo chứ không phải nhà khảo cổ học nên chưa tìm được các thông tin quan trọng hơn liên quan đến nhóm hiện vật này. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Barrett, Douglas. 1954. Sculptures from Amaravati in the British Museum. London: The Trustees of British Museum. 2. Beer, Robert. 2003. Tibetian Buddhist Symbols. Boston: Shambhala. 3. Coomaraswamy, A. 1927. “The Origin of the Buddha Image”. The Art Bulletin 9, No.4, pp. 287-328. 4. Department of Archaeology-Central Cultural Fund (DoA-CCF). 2019. State of Conservation Report: Golden Temple of Dambulla (Sri Lanka) (C 561). Ministry of Housing, Construction and Cultural Affairs; The Democratic Socialist Republic of Sri Lanka, UNESCO website. https://whc.unesco.org/en/search/?criteria=Golden+Temple+ of+Dambulla+%28Sri+Lanka%29+%28C+561%29&searchbutton. Truy cập 12/3/2020. 5. Foucher, A. 1917. The Beginning of Buddhist Art and Other Essays in Indian and Central Asian Archaeology (Revised by the Author and Translated by L.A. Thomas & F. W. Thomas). London: Humphrey Milford. 6. Hall, R. Kenneth. 1985. Maritime Trade and State Development in Early Southeast Asia. Honolulu: University of Hawai’i Press. 7. Huntington, Susan L. 2012. Lay Ritual in the Early Buddhist Art of India: More Evidence Against the Aniconic Theory. Amsterdam: J. Gonda Lecture, Royal Netherlands Academy of Arts and Sciences. 8. Indorf, Pinna. 2014. “Dvaravati Cakras: Questions of their Signigicance”. In Before Siam: Essays in Art and Archaeology (eds. Nicolas Revire & Stephen A. Murphy), pp. 272-309. Bangkok: River Books. The Siam Society. 9. Kinh Ma Ha Ma Da. 2017. Sa môn Thích Đàm Cảnh (Hán dịch); Cư sĩ Hạnh Cơ (Việt dịch). Thư viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org, truy cập ngày 25/7/2019. 52 NGUYỄN THỊ TÚ ANH – TÁC PHẨM ĐIÊU KHẮC TỰ THUẬT 10. Krairiksh, Piriya. 2012. The Roots of Thai Art (trans. Narisa Chakrabongse). Bangkok: River Books. 11. Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải. 1995. Văn hóa Óc Eo - những khám phá mới. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 12. Longhurst, A.H. 1979. The Story of the Stupa. New Delhi: Asian Educational Services. 13. Malleret, Louis. 1962. “Analyses chimiques de monnaises d'argent”. In L’Archeologie de Delta du Mekong, No.43, Vol.3. Pub. EFEO. 14. Perera, H.R. 1988. Buddhism in Sri Lanka: A Short History. Sri Lanka: Buddhist Publication Society. 15. Phanuwat Ueasaman. 2019. “Ancient Hill Temples and Holy Caves in Upper Southern Thailand and the Trans-peninsular Route Connection”. In Proceeding of Ancient Maritime Cross-cultural Exchanges Archaeological Research in Thailand (ed. FAD): 34-54. The Fine Arts Department, Ministry of Culture, Thailand. 16. Revire, Nicolas. 2011. “Some reconsiderations on pendant-legged Buddha images in the Dvāravatī artistic tradition”. Bulletin of The Indo-Pacific Prehistory Association 31, pp. 37-49. 17. Revire, Nicolas. 2016. The Enthroned Buddha in Majesty: An Iconological Study. Thèse de Doctorat, Langues et civilisations orientales. Paris: Université Sorbonne Nouvelle. 18. Woodward, Hiram. 2003. The Art and Architecture of Thailand: From Prehistoric Times through the Thirteenth Century. Leiden Boston: Brill.
File đính kèm:
- tac_pham_dieu_khac_tu_thuat_phat_giao_thuoc_van_hoa_oc_eo_ta.pdf