Tác động của bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) tới động cơ học của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
Kiểm tra đánh giá từ lâu đã là một khâu quan trọng trong quá trình dạy và học, việc áp
dụng bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) nhằm xác định chuẩn
đầu ra về trình độ ngoại ngữ cho sinh viên toàn Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo ra những áp lực
mới, thử thách mới đối với cả người học, người dạy và các nhà quản lý. Nghiên cứu này được thực
hiện để khảo sát 751 sinh viên thông qua hình thức bảng hỏi nhằm tìm ra tác động của bài thi đối
với động cơ học tiếng Anh của sinh viên trong hệ thống Đại học Quốc gia Hà Nội. Các kết quả cho
thấy bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) có tác động lớn đến
động cơ học của sinh viên tuy nhiên họ chưa thực sự tin tưởng chương trình tiếng Anh cơ sở có thể
giúp đạt được yêu cầu về chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, đa số sinh viên cảm nhận về độ khó của bài
thi thông qua các lời đồn đại và cũng chưa thực sự quan tâm đến hình thức và các nội dung của đề
thi. Từ các kết quả nghiên cứu có thể gợi mở các đề xuất nhằm phát huy các ảnh hưởng tích cực,
giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực, nâng cao hiệu quả giảng dạy tiếng Anh, hướng tới mục tiêu cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của bài thi đánh giá năng lực tiếng Anh do Việt Nam xây dựng (VSTEP) tới động cơ học của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội
nghiên cứu cho thấy động cơ học tập có ảnh hưởng đến hoạt động học N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 108 tiếng Anh của sinh viên, cụ thể là các khía cạnh Đặt mục tiêu học tập, Lựa chọn nội dung và tài liệu học tập, Tìm cơ hội để luyện tập với người nước ngoài khi P-value của các biến này đều có giá trị p < 0.05. Các trọng số của các khái niệm này đều có giá trị dương, chứng tỏ khi sinh viên có động cơ càng cao thì sinh viên càng có kế hoạch xác lập mục tiêu học tập rõ ràng, lựa chọn nội dung học và tài liệu học liên quan đến bài thi, tích cực tìm kiếm cơ hội luyện tập với người nước ngoài. Trong nhóm nhân tố liên quan đến Hoạt động học tiếng Anh, biến Phương pháp học và ôn thi không chịu ảnh hưởng của Động cơ học tập vì giá trị p = 0.530 > 0.05. Theo kết quả bảng 35 về trọng số ảnh hưởng, Động cơ học tập có ảnh hưởng lớn nhất tới tính chủ động trong tìm kiếm cơ hội Luyện tập với người nước ngoài (Estimate = 0.365) và ảnh hưởng ít nhất tới Hiểu biết về bài thi của sinh viên (Estimate = 0.068) Bảng 3. Tỉ lệ % đồng ý các nhận định về động cơ thâm nhập Nhận định Không đồng ý Phân vân Đồng ý Học vì thích văn hóa Anh, Mỹ 20.9 25.7 53.4 Học để giải trí 6 8.9 85.1 Học để giao lưu bạn nước ngoài 4.7 7.9 87.4 Học để cập nhật 6.5 12.9 80.6 f 4.2. Sự tự tin Khía cạnh thứ hai liên quan đến yếu tố người học là Sự tự tin. Khái niệm này đề cập đến Sự tự tin của sinh viên vào khả năng thi đạt bài thi xét chuẩn đầu ra và sự tin tưởng vào hiệu quả của chương trình học tiếng Anh tại trường cũng như cam kết sẽ hoàn thành chương trình đó. Có 3 nhận được đưa ra trong mục này gồm câu hỏi số 9 đến câu hỏi số 11 được mã hóa lần lượt là TT1, TT2 và TT3. Nhìn chung, các nhận định này có chỉ số không cao. Chỉ duy nhất có nhận định số 3 (Tôi tin rằng mình sẽ hoàn thành đầy đủ các học phần tiếng Anh cơ sở) nhận được sự đồng ý của đáp viên với mức điểm 4.27 (Đồng ý). Hai nhận định còn lại “Tôi tin rằng mình có thể vượt qua bài thi chuẩn đầu ra” và “Tôi tin rằng nếu học đầy đủ các học phần tiếng Anh cơ sở, tôi sẽ thi đạt bài thi chuẩn đầu ra” đều nhận được mức điểm dưới 4 tức là “Phân vân”. Kết quả này cho thấy sinh viên còn lo lắng và không tin rằng mình có thể vượt qua bài thi xét chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, sinh viên cũng chưa có sự tin tưởng vào hiệu quả của chương trình tiếng Anh cơ sở trong việc giúp họ đạt được chuẩn đầu ra tiếng Anh của chương trình đào tạo. Bảng 4. Sự tự tin TT1_1 TT2_1 TT3_1 Số lượng 751 751 751 Trung bình 3.89 3.78 4.27 Độ lệch chuẩn 1.212 1.254 1.222 r Trong 3 nhận định về Sự tự tin, nhận định thứ 3 là nhận định duy nhất nhận được tỉ lệ “Đồng ý” tương đối cao. Đó là nhận định “Tôi tin rằng mình sẽ hoàn thành đầy đủ các học phần tiếng Anh cơ sở” được 74.7% đáp viên lựa chọn mức “Đồng ý”, “Rất đồng ý” và “Hoàn toàn đồng ý”. Điều này chứng tỏ mặc dù chưa thực sự tin tưởng vào hiệu quả của chương trình tiếng Anh cơ sở nhưng hầu hết sinh viên đều cam kết sẽ hoàn thành đầy đủ chương trình học. N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 109 a Bảng 5. Tỷ lệ % đồng ý các nhận định về sự tự tin Nhận định Không đồng ý Phân vân Đồng ý Tôi tin rằng mình có thể vượt qua bài thi chuẩn đầu ra 7.6 33.8 58.6 Tôi tin rằng nếu học đầy đủ các học phần tiếng Anh cơ sở tôi sẽ thi đạt bài thi chuẩn đầu ra 11.8 30.2 58 Tôi tin rằng mình sẽ hoàn thành đầy đủ các học phần tiếng Anh cơ sở 6.3 19 74.7 i 5t 4.3. Niềm tin về cách học và kiểm tra đánh giá hiệu quả Niềm tin về cách học và kiểm tra đánh giá tiếng Anh hiệu quả được khảo sát thông qua 5 câu hỏi được mã hóa NT1, NT2, NT3, NT4 và NT5, bao gồm các nhận định sau: NT1: Học tiếng Anh để giao tiếp khó hơn để vượt qua bài thi chuẩn đầu ra. NT2: Giảng viên đóng vai trò quan trọng nhất trong việc giúp sinh viên học tiếng Anh hiệu quả NT3: Ôn thi những bài thi quan trọng sẽ làm tăng trình độ tiếng Anh của sinh viên NT4: Một bài thi tốt nên cung cấp nhận xét cụ thể về điểm mạnh, điểm yếu của thí sinh ngoài việc cung cấp điểm thi NT5: Áp lực lớn từ bài thi sẽ làm giảm hứng thú học tiếng Anh của sinh viên Bảng 6. Niềm tin về việc học và kiểm tra đánh giá tiếng Anh hiệu quả NT1_1 NT2_1 NT3_1 NT4_1 NT5_1 Số lượng 751 751 751 751 751 Trung bình 3.87 3.88 3.85 4.72 4.65 Độ lệch chuẩn 1.416 1.252 1.204 1.095 1.335 u Năm nhận định thể hiện niềm tin của sinh viên về việc học tiếng Anh, vai trò của bài thi quan trọng, vai trò của giảng viên được chia thành 2 nhóm dựa trên điểm chấm của đáp viên. Nhóm 1 bao gồm những 3 nhận định chỉ nhận được mức điểm trung bình trên mức 3 (Phân vân). Nhóm 2 gồm những 2 nhận định ở mức điểm trung bình trên 4 (Đồng ý). Theo kết quả này, đáp viên còn phân vân, chưa chắc chắn về độ khó của việc học tiếng Anh để giao tiếp và học tiếng Anh để thi (NT1). Đáp viên không cho rằng “giảng viên là người quan trọng nhất trong việc giúp sinh viên học tiếng Anh hiệu quả” (NT2). Thêm vào đó, sinh viên cũng không tin tưởng liệu việc “ôn thi những bài thi quan trọng sẽ giúp sinh viên tăng trình độ tiếng Anh” (NT3). Đối chiếu kết quả về nhận định NT2 và NT3 với những nhận định về Sự tự tin TT2 (Tôi tin rằng nếu học đầy đủ các học phần TACS tôi sẽ thi đạt bài thi chuẩn đầu ra) ta thấy có sự tương đồng và liên quan: Sinh viên chưa có niềm tin vững chắc vào hiệu quả của chương trình học nên họ cũng chưa đặt niềm tin tuyệt đối vào giảng viên trong việc giúp họ vượt qua bài thi chuẩn đầu ra. Sinh viên có một quan niệm khá tách biệt giữa việc học để tăng năng lực giao tiếp tiếng Anh trong thực tế và học để thi vượt qua bài thi chuẩn đầu ra. Theo họ, hai việc này dường như không liên quan chặt chẽ tới nhau. Tóm lại, nhóm sinh viên tham gia nghiên cứu thể hiện có động cơ tương đối cao khi học tiếng Anh, trong đó động cơ thâm nhập và động cơ thực dụng đóng vai trò tương đương nhau. Những động cơ chủ yếu đối với sinh viên khi tham gia học các học phần tiếng Anh cơ sở là “Học tiếng Anh để thi đạt bài thi chuẩn đầu ra” và “Học tiếng Anh để có thể giao lưu với bạn bè quốc tế”. Khi đăng ký tham gia học tiếng Anh tại trường, sinh viên còn lo lắng và không tin rằng mình có thể vượt qua bài thi xét chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, sinh viên cũng chưa có sự tin tưởng vào hiệu quả của chương trình tiếng Anh cơ sở trong việc giúp họ đạt được chuẩn đầu ra tiếng Anh của chương trình đào tạo. Sinh viên chưa có niềm tin vững chắc vào hiệu quả N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 110 của chương trình học nên họ cũng chưa đặt niềm tin tuyệt đối vào giảng viên trong việc giúp họ vượt qua bài thi chuẩn đầu ra. Sinh viên có một quan niệm khá tách biệt giữa việc học để tăng năng lực giao tiếp tiếng Anh trong thực tế và học để thi vượt qua bài thi chuẩn đầu ra. Theo họ, hai việc này dường như không liên quan chặt chẽ tới nhau. Các kết quả cũng cho thấy nhân tố Sự tự tin có ảnh hưởng đến toàn bộ các nhân tố thuộc Hoạt động học tiếng Anh trừ nhân tố Phương pháp học và ôn thi do P-value của khái niệm này có giá trị p = 0.229 > 0.05. Trong các khía cạnh của Hoạt động học tập, Sự tự tin ảnh hưởng nhiều nhất đến Nội dung và tài liệu học tập (Estimate = 0.299) và ảnh hưởng ít nhất đến Luyện tập với người nước ngoài (Estimate = 0.142). 4.4. Cảm nhận về độ khó của bài thi Sinh viên tham gia nghiên cứu chưa từng thi bài thi xét chuẩn đầu ra nên chưa có trải nghiệm trực tiếp về độ khó của bài thi. Khái niệm “độ khó của bài thi” chỉ do sinh viên hình dung thông quan lời đồn thổi từ những sinh viên khóa trên, từ giảng viên và từ những tài liệu luyện thi. “Cảm nhận về độ khó của bài thi” được đánh giá qua 3 nhận định: BT1: Các sinh viên khóa trước nói bài thi chuẩn đầu ra là một bài thi rất khó BT2: Giảng viên nói bài thi chuẩn đầu ra là một bài thi rất khó BT3: Qua tài liệu luyện thi, tôi nghĩ bài thi chuẩn đầu ra là một bài thi rất khó Bảng 7. Cảm nhận về độ khó của bài thi BT1_1 BT2_1 BT3_1 Số lượng 751 751 751 Trung bình 4.21 3.66 4.08 Độ lệch chuẩn 1.259 1.266 1.266 Qua số liệu thu được, có thể thấy sinh viên phần lớn cảm nhận về độ khó của bài thi qua lời đồn từ các sinh viên khóa trên và qua việc làm các bài tập luyện thi. Trong đó, lời đồn là yếu tố lớn nhất hình thành nên cảm nhận của sinh viên về độ khó của bài thi chuẩn đầu ra khi mức điểm trung bình đạt được của nhận định này là lớn nhất 4.21 (Đồng ý). 68.3% đáp viên chọn mức “Đồng ý”, “Rất đồng ý” hoặc “Hoàn toàn đồng ý” với nhận định “Các sinh viên khóa trước nói bài thi chuẩn đầu ra là một bài thi rất khó”. Ngược lại, sinh viên không chịu nhiều áp lực từ giảng viên khi nhận định “Giảng viên nói bài thi chuẩn đầu ra là một bài thi rất khó” có mức điểm trung bình thấp nhất 3.66 (Phân vân). Số liệu thu được cho thấy sinh viên phần lớn cảm nhận về độ khó và tầm quan trọng của bài thi qua lời đồn từ các sinh viên khóa trên và qua việc làm các bài tập luyện thi. Trong đó, lời đồn là yếu tố lớn nhất hình thành nên cảm nhận của sinh viên về độ khó của bài thi chuẩn đầu ra. Sinh viên không chịu nhiều áp lực từ giảng viên vì giảng viên không thường xuyên nhấn mạnh về độ khó hay tầm quan trọng của bài thi. Sinh viên không hiểu biết nhiều về bài thi khi chỉ tự tin kể được một số kỹ năng sẽ được kiểm tra trong mà không rõ định dạng và mục đích áp dụng bài thi. Khi xét ảnh hưởng của Bài thi tới nhân tố Động cơ học tập, P-value của các khái niệm Áp lực từ bài thi và Hiểu biết về bài thi đều có giá trị p > 0.05 nên cả hai yếu tố đều không có ảnh hưởng tới Động cơ, hay nói cách khác cảm nhận của sinh viên về độ khó, tầm quan trọng của bài thi và hiểu biết của bài thi không tác động gì tới động cơ học tiếng Anh của họ. 5. Kết luận Động cơ học tập và Sự tự tin có ảnh hưởng tới Hoạt động học tập của sinh viên, cụ thể ảnh hưởng tới (i) Đặt mục tiêu và lập kế hoạch học tập, (ii) Lựa chọn nội dung và tài liệu học tập, (iii) Tìm kiếm cơ hội luyện tập với người nước ngoài. Các ảnh hưởng này đều là ảnh hưởng thuận chiều. Nhưng yếu tố người học không ảnh hưởng tới phương pháp học và ôn thi. Yếu tố bài thi (Áp lực từ bài thi và Hiểu biết về bài thi) có ảnh hưởng tới hoạt động học tập của sinh viên, cụ thể ảnh hưởng tới (i) Đặt mục tiêu và lập kế hoạch học tập, (ii) Lựa chọn nội dung và tài liệu học tập. Các ảnh hưởng này đều là ảnh hưởng thuận chiều. Tuy nhiên, áp lực của bài thi không ảnh hưởng đến việc sinh viên tìm N.T. Lan, N.T. Nga / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 4 (2019) 102-111 111 kiếm cơ hội luyện tập với người nước ngoài và Hiểu biết về bài thi không ảnh hưởng đến Phương pháp học và ôn thi. Kết quả nghiên cứu này cũng là gợi ý quan trọng cho giảng viên và những người xây dựng chương trình. Khi sinh viên có động cơ học tương đối cao như vậy cần có cách tiếp cận hợp lý để duy trì động cơ cho sinh viên trong cả ba học phần tiếng Anh cơ sở. Hơn nữa, sinh viên học không chỉ để thi đạt bài thi chuẩn đầu ra mà họ còn rất hứng thú với việc học tiếng Anh “để giao lưu với bạn bè nước ngoài” và học vì “thích tìm hiểu các nền văn hóa Anh, Mỹ” nên chương trình học cần có những hoạt động giao lưu, giao tiếp với người bản xứ hoặc người nước ngoài nói tiếng Anh và có những dự án học tập dùng tiếng Anh làm công cụ để tìm hiểu văn hóa hoặc khai thác các khía cạnh đời sống thực tế. Điều này dường như còn thiếu hụt trong chương trình học của cả ba học phần tiếng Anh cơ sở. Toàn bộ chương trình đều do giáo viên Việt Nam giảng dạy. Trong đề cương học phần ghi rõ không có số tiết dành cho giáo viên nước ngoài hay bản xứ. Các hoạt động học tập chỉ xoay quanh giáo trình giảng dạy 4 kỹ năng Nghe, Nói, Đọc, Viết (New English File). Phần kiểm tra đánh giá theo lối truyền thống dựa trên các bài thi, không có các hình thức học tập qua dự án hay trải nghiệm thực tế. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc Gia Hà Nội trong đề tài mã số QS.18.07. Tài liệu tham khảo [1] Hoang Van Thai, A study on Engish for Specific Purpursed assessment for Tourism colleges in Vietnam. Doctoral Thesis. Institute of Quality Management, VNU, 2016. (in Vietnamese). [2] Nguyen Thi Ngoc Quynh, A study on the validity of VSTEP writing tests for the sake of regional and international integration, VNU Journal of Foreign Studies 34 (4) (2018) 115-128. https://doi.org/10.25073/2525-2445/vnufs.4285. (in Vietnamese). [3] Nguyen Thi Phuong Thao, A study on the validity of VSTEP reading tests level 3-5 (VSTEP 3-5), VNU Journal of Foreign Studies 34 (4) (2018) 129-143. https://doi.org/10.25073/2525- 2445/vnufs.4286. (in Vietnamese). [4] J. Nichols, Do high-stakes English Proficiency Tests motivate Taiwanese university students to learn English? American Journal of Educationl Research 4 (13) (2016) 927 -930. [5] R. Gardner, W. Lambert, Motivational Variables in Second-Language Acquisition, Canadian Journal of Psychology 13 (4) (1959) 266-272. [6] K. Csizer, Z. Dornyei, The Internal Structure of Language Learning Motivation and Its Relationship with Language Choice and Learning Effort, The Modern Language Journal 89 (1) (2005) 19-36. https://doi.org/10.1111/j.0026- 7902.2005.00263.x [7] Z. Dornyei, Analysis of motivation components in foreign language learning, presented at the World congress of Applied Linguistics, Thesanloniki, Greece, 1990, Washington DC: US Department of Education, 1990. [8] H.B. Brown, Principles of language learning and teaching (4th ed.), Englewood Cliffs NJ: Prentice- Hall, 2000. [9] D.W. Glascoff, A Meta-Analysis of Fear Appeals: Implications for Effective Public Health Campaigns, Marketing Health Services 20 (4) (2000) 591-615. https://doi.org/10.1177/109019810002700506. [10] A. Johnston, M. Warkentin, Fear appeals and information security behaviors: An empirical study, MIS Quarterly, 34 (3) (2010) 549-566. [11] P. Gore, S. Madhavan, D. Curry, G. McClurg et al., Persuasive Messages, Marketing Health Services 18 (4) (1998) 32-43. [12] J. Eckart, Mind Control Tactic - Fear Appeal, NLP & Hypnosis, April 5, 1, 2011. [13] D.W. Putwain, C.M. Roberts, The development and validation of the Teachers Use of Fear Appeals Questionnaire, British Journal of Educational Psychology 79 (2009) 643–661. [14] C. Alderson, D. Wall, Does washback exist? Applied Linguistics 14 (2) (1993) 115-129. [15] C.M.C. Gosa, Investigating washback: A case study using students’ diaries, Unpublished PhD dissertation, Lancaster: Lancaster University, 2004.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_bai_thi_danh_gia_nang_luc_tieng_anh_do_viet_nam.pdf