Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa

Trong máu thịt của nhiều thế hệ nghệ nhân đúc đồng làng Chè (Kẻ Chè)

tỉnh Thanh đã thấm mùi khét của thịt da hun lửa đồng, mùi chua của rượu gạo, mùi hôi

nồng của thân thể những ngày dõi theo công việc nghề đúc nhằm cho ra đời một sản

phẩm nghệ thuật theo yêu cầu của khách hàng. Những tác phẩm đó thể hiện bàn tay tài

hoa và tâm hồn tinh tế của người dân làng Chè. Tìm hiểu những dấu vết hiện còn,

những câu chuyện dân gian, các câu đố, ca dao, hò vè, tục ngữ, những ghi chép trong

tộc phả, gia phả, thần phả, những tục lệ, khoán ước. còn lưu truyền về nghề đúc đồng

là mong muốn của tác giả để tìm lại một không gian văn hóa với đầy huyền tích.

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 1

Trang 1

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 2

Trang 2

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 3

Trang 3

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 4

Trang 4

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 5

Trang 5

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 6

Trang 6

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 7

Trang 7

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa trang 8

Trang 8

pdf 8 trang xuanhieu 1960
Bạn đang xem tài liệu "Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa

Sức sống văn hóa truyền thống ở làng đúc đồng Kẻ Chè, tỉnh Thanh Hóa
a sông Chu thời Pháp thuộc); 
hiện còn hai khu di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng là: Đền thờ nhà sử học Lê Văn Hưu 
(1230 - 1322), người khởi thảo bộ Đại Việt sử ký (thời Lê sơ) và đền thờ ông Tổ nghề 
đúc đồng Khổng Minh Không. Hai khu di tích lịch sử văn hóa này đã được Bộ Văn hóa 
- Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp 
quốc gia.
 Làng Chè gắn liền với nghề đúc đồng gia truyền. Người làng Chè có bàn tay tài 
khéo, họ giỏi đúc đồng hơn làm ruộng. Xưa làng có hai phường Xóm Trên và Xóm 
Dưới, được thiết lập theo tổ chức xã hội của nhà nước phong kiến quy định, ngoài ra 
làng nghề còn có tổ chức dòng họ và tổ chức nghề nghiệp. Ước tính mỗi phường có 
khoảng 100 thợ, chủ phường thường là người đứng đầu một dòng họ lớn, là người thợ 
đúc giỏi có uy tín, có kinh nghiệm. Sản phẩm là các mặt hàng dân dụng và mỹ nghệ. Về 
sau do nhu cầu của đời sống, thợ làng Chè còn sản xuất thêm các mặt hàng công nghiệp 
và quốc phòng. Văn hóa của làng từ xưa đến nay vẫn là văn hóa nghề đúc đồng Đông 
Sơn truyền thống.
 Sinh hoạt nghi lễ của phường đúc chính là sinh hoạt văn hóa nơi đây. Bởi lẽ, tìm 
hiểu những dấu vết hiện còn, những câu chuyện dân gian truyền miệng, những điều 
ghi chép trong tộc phả, gia phả, thần phả, tục lệ, khoán ước... hội phường cũng từ ấy 
đến nay được lập ra để các tộc nghề có quan hệ gắn bó với nhau trong nghề nghiệp, 
đồng thời tham gia sinh hoạt tế lễ và đã trở thành tập tục của làng. Hàng năm, dân 
làng tế lễ tổ sư nghề đúc vào ba kì. Lần thứ nhất là lễ tế xuân vào ngày mùng 8 tháng 
giêng (Lễ cầu an) nhằm ca ngợi công đức của người đã tìm ra đất để hành nghề. Lễ tế 
lần thứ hai vào ngày mùng 3 tháng 6 âm lịch (là ngày giỗ của sư tổ nghề đúc) nhằm bộc 
lộ lòng thương tiếc, thành kính của con cháu kế tục nghề nghiệp tổ sư truyền lại. Lễ tế 
lần thứ ba được tổ chức vào ngày 14 tháng 9 âm lịch (ngày sinh Ngài) là lễ tế thu nhằm 
ca ngợi công đức của người đã sinh ra nghề và truyền lại để con cháu hậu sinh có nghề 
làm ăn sinh nhai và ngày càng giàu có, hạnh phúc. Vào các ngày lễ này, các tộc nghề 
đúc đồng trong làng đều về đây tế lễ, rước lửa thiêng về chập lò cầu thành công.
 Do hai yêu cầu về quan hệ huyết thống và quan hệ nghề nghiệp nên tổ chức họ tộc 
được hình thành, nó có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của văn hóa làng nghề. Việc 
hình thành các tập tục, lề thói, lễ nghi là một ví dụ. Đã thành tiền lệ, đầu xuân các anh 
em trong cùng một họ tộc thường chúc nhau sức khỏe, hạnh phúc ngoài ra họ còn chúc 
nhau việc làm ăn được phát đạt, hanh thông; cũng là dịp để anh em phổ biến kinh 
nghiệm đúc và kinh doanh hàng hóa của nghề đúc. Những câu thành ngữ, tục ngũ, ca
58
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
dao về nghề đúc đồng được hình thành, bồi đắp, sàng lọc từ những nguồn cảm hứng mà 
anh em trong họ tộc dành cho nhau trong những mâm rượu chúc tụng ngày tết đến xuân 
về, đã trở thành những sáng tác văn học dân gian của làng đúc Kẻ Chè. Cũng từ những 
sinh hoạt văn hóa cộng đồng đầu năm này, các lò đúc chọn ngày lành tháng tốt để nổi 
lửa, đúc khai xuân lấy ngày đẹp, cầu nguyện sư tổ làng nghề Khổng Minh Không ban 
phúc lộc cho việc làm ăn vui vẻ cả năm. Sau ngày đúc khai xuân đó, tại các sân lò đúc, 
những người nghệ nhân trưởng thành trong làng thường kể cho con cháu nghe về câu 
chuyện huyền thoại gắn liền với ông tổ đã truyền nghề đúc đồng mà chứng tích về sự 
hiện diện của ông còn lưu giữ tại đền thờ đức Khổng Minh Không trong làng.
 2. Sự bảo lưu văn hóa làng nghề thủ công đúc đồng truyền thống Kẻ Chè
 Cũng như làng chạm khắc đá Anh Hoạch có lịch sử từ thời Lý, trải qua những 
thăng trầm, biến thiên của lịch sử vẫn kiên cường tồn tại và phát triển. Đặc trưng của 
một làng nghề cổ là sự linh hoạt sản xuất, sáng tạo hàng thủ công mỹ nghệ trong bối 
cảnh một làng bán nông, bán công, bán thương. Có thể nói, thủ công nghiệp Việt Nam 
thời phong kiến chưa được coi trọng, thậm chí còn là nghề “nặng nhọc”, “lao dịch”, có 
lẽ tính chất lao động khác biệt với việc làm nông “làm ruộng ăn cơm nằm, chăn tằm ăn 
cơm đứng”. Thậm chí trong Hình Thư của nhà Lý có nội dung “Năm 1117, nhà vua ban 
lệnh cấm giết trâu bò... kẻ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm khiên giáp (phục dịch 
trong quân), xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (chăn nuôi tằm) và phải bồi thường 
t r â u . ”. Qua đoạn văn trên trong Hình Thư cho thấy nghề thủ công còn bị xem là thứ 
lao dịch...
 Ngày nay, làng nghề đúc đồng Kẻ Chè vẫn phát triển, nghệ nhân ở đây vẫn vừa 
tạo hình, làm khuôn, đúc bản phôi, vừa gia công hoàn thiện tạo hình bề mặt sản phẩm. 
Được như vậy, rõ ràng không chỉ ở lợi nhuận về kinh tế, mà chủ yếu là sự đam mê yêu 
nghề, sự tự hào về một thương hiệu của quê hương, trách nhiệm với hậu thế...
 Những lễ hội, tục trò, ứng xử giao tiếp của dân làng hàng ngày đã toát lên một 
không gian đặc trưng của một làng nghề truyền thống có bề dày gần ngàn năm lịch sử.
 Hệ thống văn hóa vật chất bao gồm: di tích lịch sử tôn thờ sư tổ nghề đúc đồng 
Khổng Minh Không tại làng Trà Đông. Các công xưởng đúc đồng và xưởng chạm khắc, 
đánh bóng hoàn thiện sản phẩm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm... Hệ thống văn hóa tinh 
thần thì bao gồm: văn tự di chỉ làng tại đền thờ Tổ, Bia ký, truyền thuyết dân gian khai 
sinh đất làng, truyền thuyết dân gian về khai sinh Tổ nghề và hai ông trùm nghề họ 
Vũ.... Qua nội dung các hệ thống văn hóa trên chúng ta nhận thấy những giá trị văn hóa 
tiêu biểu, tài nghệ của các nghệ nhân, tư tưởng, tâm hồn, tình cảm của họ và đặc biệt là 
lòng tự hào, lòng biết ơn các thế hệ kế tục truyền thống của văn hóa làng nghề. Xin đưa
 59
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
ra một số khảo sát tiêu biểu về hai hệ thống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tại 
làng đúc đồng Trà Đông.
 3. Một số sáng tác văn học dân gian gắn về nghề đúc làng Chè
 Cùng với các câu chuyện huyền thoại được kể bằng văn xuôi về đức Thánh Khổng 
Minh Không và các câu chuyện được viết bằng văn vần để tế Thánh, làng Chè còn lưu 
truyền nhiều sáng tác văn học dân gian về nghề đúc của làng mình thông qua các câu 
đố, ca dao, hò vè, tục ngữ...Ví dụ:
 + Đúc đồng không chỉ đòi hỏi kỹ thuật cao mà cũng phải tốn nhiều sức lực và phải 
thật chăm chỉ. Cảnh lao động ở đây đã được ghi lại:
 "Muốn uống nước chè cặm tăm 
 Mời về Trà Đúc mà làm đất khuôn 
 Muốn ăn cơm trắng với tôm 
 Thổi bễ thúc dồn chớ có nghỉ tay".
 Vì sản phẩm chủ yếu ở Trà Đông là các loại đồ đồng dân dụng như nồi, mâm, 
xanh, niễng... kiểu dáng giống nhau nhưng kích thước to, nhỏ khác nhau. Ngoài ra, còn 
có các loại sản phẩm như các loại bát hương, đèn, chân đèn... Đặc biệt, những thợ giỏi 
có kinh nghiệm và kỹ thuật cao có thể đúc được các loại sản phẩm nghệ thuật như các 
loại tượng, các loại con giống và các loại chuông, cồng, chiêng... Việc đúc các loại 
tượng rất khó vì có yêu cầu cao về thẩm mỹ, song việc đúc các loại chuông, cồng, 
chiêng còn khó hơn vì ngoài yêu cầu thẩm mỹ, nghệ nhân còn phải biết pha chế đồng 
với các chất khác thành một loại hợp kim đặc biệt để có tiếng ngân vang chuẩn xác.
 + Quá trình “chuyển hóa” từ đồ đồng qua các khâu sử dụng, sau khi hỏng lại trở 
về lò đúc được địa phương ví von trong một câu đố:
 "Ở nhà má đỏ hồng hồng 
 Khi đi lấy chồng lại bỏ quê cha 
 Bao giờ tuổi tác về già 
 Quê chồng lại bỏ, quê cha lại về".
 Bởi nghề đúc đồng ở Trà Đông ngoài việc khai thác nguyên liệu từ các mỏ 
quặng đồng còn tận dụng các nguồn đồng thứ phẩm (đồng nát) từ các nơi mua về. Nên 
đồng nát được ví như cô gái trẻ đẹp đi lấy chồng, đến khi về già lại quay về nới quê nhà 
để được tái sinh.
 + Chợ Chè xưa là nơi buôn bán tấp nập nhất trong vùng, cũng là nơi chủ yếu bán 
các sản phẩm từ các lò đúc Trà Đông và mua phế liệu của các nơi đem đến bán. Cảnh 
tấp nập đông vui của chợ đã được ca dao ghi lại:
 "Chợ Chè một tháng sáu phiên
60
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 Phường buôn phường bán khắp miền về đây 
 Cảnh chợ buôn bán vui thay 
 Tiếng đồn Trà Đúc đến nay vẫn truyền".
 + Ca ngợi người nâng nồi đồng để đổ vào khuôn vất vả nhất là ông Xiêm. Đổ ba 
mươi sáu cơi đồng, mỗi cơi đồng có khoảng 10kg đồng để đổ vào khuôn:
 "Ông Xiêm đầu bạc như cò 
 Sao ông chẳng lo 
 Vác 36 cơi đồng đổ vò lỗ thiếu"
 (Lỗ thiếu là đường dẫn nước đồng chảy vào khuôn).
 + Câu tục ngữ nhắc nhở trách nhiệm của người chủ lò đúc như sau:
 "Thấy ma ăn cỗ 
 Không bằng tìm lỗ nồi hàn"
 Nhìn chung, văn học dân gian nghề đúc đồng cũng giống như hệ thống văn học 
dân gian Việt Nam luôn được bắt nguồn từ trong lao động sản xuất. Câu nói nổi tiếng 
thể hiện tính bí truyền của nghề đúc là: Ăn cơm dương gian, làm việc âm phủ; nghề đúc 
là nghề gia truyền, mỗi nghệ nhân phải đào luyện cả đời những kỹ thuật đúc, chạm 
khắc; chính vì vậy câu tục ngữ vừa thể hiện tính chất nghề nghiệp, vừa hàm ý răn dạy 
con cháu phải bền bỉ lao tâm khổ tứ với nghiệp gia đình. Mối quan hệ nghề nghiệp giữa 
chồng với vợ, giữa cha mẹ và con cái, cháu chắt vì thế gắn bó khăng khít với nhau trong 
nghề đúc đồng. Như đã trình bày, ban đầu, nghề đúc đồng mới chỉ có ở một số gia đình 
trong làng, về sau do nhu cầu sử dụng rộng rãi nghề mới phát triển lan ra khắp làng. 
Đơn vị sản xuất chủ yếu là gia đình, mỗi gia đình là một cơ sở sản xuất, là một lò riêng, 
chủ gia đình cũng là chủ lò đúc. Ngoài công việc chính là đúc ra sản phẩm, các khâu 
khác quan trọng như tìm kiếm nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm đều do các gia đình 
đảm nhận. Việc đúc đồng là một công việc nặng nhọc, vất vả, chủ yếu do người đàn ông 
trong gia đình đảm nhiệm. Người phụ nữ ở Trà Đông chủ yếu làm các công việc phụ 
gia đình và tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, vai trò của người đàn ông làng Chè đã được các 
bà vợ ghi nhận một cách sinh động trong ca dao:
 "Làng Chè vui lắm ai ơi 
 Một ngày hai bữa chỉ ngồi ăn không 
 Việc làm đã có ông chồng 
 Đúc một nồi đồng nuôi chín miệng ăn".
 Đúc đồng là cả một quy trình kỹ thuật phức tạp bao gồm nhiều khâu, mỗi khâu có 
các bước, các thao tác kỹ thuật khác nhau. Các khâu gồm: làm khuôn, pha chế hợp chất, 
nấu đồng, đúc sản phẩm... đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Kinh
 61
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
nghiệm trong nghề đúc thường được truyền cho con trai trong gia đình, không được 
truyền cho con gái vì có thể sẽ lấy chồng và mang theo bí quyết sang làng khác....
 4. Thay lời kết
 Trong khi nhiều làng nghề truyền thống trong nước đang dần bị mai một, ví dụ 
như cùng nghề đúc đồng nhưng ở phường Ngũ Xã (Hà Nội) hiện chỉ còn hai hộ gia đình 
nghệ nhân Ngô Thị Đan và nghệ nhân Nguyễn Văn Ứng còn nổi lửa; thì nghề đúc đồng 
làng Chè (Trà Đông, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa) lại ngày càng phát triển, trở 
thành thương hiệu nổi tiếng được người dân trong và ngoài tỉnh tin dùng; các nghệ nhân 
đã khôi phục những sản phẩm truyền thống như đúc chiêng, đúc trống đồng, đúc tượng 
đồng, đồ thờ, lư hương con giống... và đỉnh cao nhất là nghệ thuật đúc trống đồng 
Đông Sơn với những chi tiết tinh xảo theo đúng hoa văn kiểu dáng xưa.
 Hiện nay, làng có hàng trăm lò đúc đồng với hàng nghìn thợ thủ công lao động 
ngày đêm tất bật. Mỗi năm, cho xuất xưởng rất nhiều mặt hàng, đồ vật gia dụng làm từ 
đồng, tiêu thụ trong cả nước và xuất khẩu đi nước ngoài. Về nguyên liệu và kỹ thuật, 
các nghệ nhân của làng nghề đúc đồng đều thực hiện các công đoạn chủ yếu là thủ công 
truyền thống theo lối “cha truyền, con nối” qua nhiều thế hệ. Và từ đó đã làm ra các sản 
phẩm đúc đồng rất phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại đủ để phục vụ cho 
mọi nhu cầu của người dân, đặc biệt là phục vụ các công trình tôn giáo và các sản phẩm 
đặc thù khác.
 Từ việc khảo sát những nét đẹp văn hóa và nghệ thuật của làng Chè, chúng tôi 
nhận thấy:
 - Sự phát triển của nghề đúc đồng từ đời này qua đời khác đã làm nên nhịp điệu 
lao động đặc trưng: một xã hội làng nghề bán nông, bán công, bán thương khá đa dạng, 
phong phú.
 - Sự tác động hai chiều của kinh tế vật chất và văn hóa nghệ thuật thông qua: 
nông nghiệp ổn định giúp cho nghề thủ công hưng thịnh do sử dụng thời gian nông nhàn 
và vật lực hỗ trợ thủ công nghiệp.
 - Chất lượng của văn hóa - nghệ thuật được thấm đẫm, sâu sắc trong từng sản 
phẩm ở nghề đúc đồng Trà Đông giúp cho sản phẩm của dân làng có “hồn”, hấp dẫn 
khách hàng, lan tỏa và tạo ra thị trường bền vững. Do vậy, trải qua nhiều thăng trầm 
làng nghề vẫn tồn tại.
 - Sự hài hòa của văn hóa, nghệ thuật với phát triển kinh tế của làng nghề đúc 
đồng Trà Đông đã thúc đẩy lòng tự hào, tự tôn nghề nghiệp, kết dính các phường thợ 
đoàn kết phát triển, xây dựng quê hương.
62
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 - Vai trò của các Thợ cả, Trưởng phường thợ ở Trà Đông là rất cao, họ biết khéo 
léo phát huy truyền thống từ vị Tổ Khổng Minh Không, đến hai ông trùm nghề họ Vũ 
và ở thời hiện đại, họ biết kết nối, tranh thủ các cấp chính quyền hỗ trợ họ theo nhiều 
chương trình khác nhau, nhờ đó làng nghề ngày càng thịnh vượng.
 Tài liệu tham khảo
 [1] . Ban Nghiên cứu và Biên soạn Lịch sử Thanh Hóa, Nghề thủ công truyền 
thống Thanh Hóa, tập 1.
 [2] . Bộ Văn hóa Thông tin (1995), Hội nghề truyền thống Việt Nam, Kỷ yếu 
hội thảo, Hà Nội.
 [3] . Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, 
Nxb Văn hóa Dân tộc.
 [4] . Charles Robequain (1929) Le Thanh Hoá, étude géographique d'une province 
Annamite, Paris et Bruxelles: G. Van Oest.
 [5] . Cục Di sản, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (BTLSVN) và Hội đồng giám định cổ vật.
 [6] . Bộ Văn hoá - Thông tin (2003), Cổ vật Việt Nam, Nxb Hà Nội.
 [7] . Nguyễn Đăng Duy (1996), Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội.
 [8] . Nguyễn Xuân Dương (dịch - 2012), Tỉnh Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa.
 [9] . Nguyễn Văn Hảo, Lê Thị Vinh (2003), Di sản văn hóa xứ Thanh, Nxb Thanh 
Niên, Hà Nội.
 [10] . Vũ Ngọc Khánh (1990), Lược truyện thần tổ các ngành nghề, Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội.
 [11] . Vũ Ngọc Khánh (2003), Nét văn hóa xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa.
 [12] . Trần Thị Liên, Phạm Văn Đấu, Phạm Minh Trị (1988), Khảo sát văn hóa 
truyền thống Đông Sơn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
 [13] . Hoàng Tuấn Phổ (2008), Thanh Hóa nghìn xưa lưu dấu, Nxb Trẻ, Hà Nội.
 VITALITY OF TRADITIONAL CULTURE AT KE CHE 
 BRONZE CASTING VILLAGE IN THANH HOA PROVINCE
 Le Thi Thanh, Ph.D student
 Abstract: The blood of many generations of artisans at Ke Che bronze casting 
village in Thanh Hoa province is imbued with smells of fire, sour rice wine and body 
odor that blend together to give artistic products as required by the customers. These 
works represent skilful hands and sophistication of Che villagers. Studying the bronze
 63
 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU
 casting craft through extant traces, folk tales, riddles, folksongs, proverbs, family 
 genealogy records, customs, conventiom....is still the author’s desire in the hope of 
finding a cultural space full o f legendary stories.
 Key words: bonze casting, traditional culture, Ke Che, Tra Dong village, Khong 
 Minh, legendary stories, traditional craft, Dong Son culture...
 64

File đính kèm:

  • pdfsuc_song_van_hoa_truyen_thong_o_lang_duc_dong_ke_che_tinh_th.pdf