Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis

TÓM TẮT

Tảo cô đặc Nannochloropsis oculata ở dạng nhão và lỏng đậm đặc được nghiên cứu làm thức ăn,

thay thế vi tảo tươi tương ứng cho luân trùng Brachionus plicatilis. Luân trùng được nuôi bán liên

tục trong các bể composite hình trụ, dung tích 500 lít. Thức ăn duy nhất là vi tảo N. oculata ở dạng

nhão cô đặc hoặc lỏng đậm đặc (thí nghiệm) so với dạng tươi hoặc dạng nhão-sản phẩm thương mại

làm đối chứng. Các thông số mật độ cực đại, tốc độ sinh sản, tỷ lệ mang trứng, sản lượng thu hoạch

hàng ngày và tổng sản lượng thu hoạch trong một đợt nuôi được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của

thức ăn lên quần thể luân trùng. Quần thể sử dụng tảo cô đặc dạng nhão-thí nghiệm có các chỉ tiêu

đánh giá thấp hơn quần thể sử dụng vi tảo tươi tương ứng, cụ thể là mật độ cực đại đạt 89%, tốc độ

tăng trưởng đạt 92%, tỷ lệ mang trứng đạt 82%, tổng sản lượng thu hoạch đạt 80%; không khác biệt

so với quần thể sử dụng tảo cô đặc dạng nhão-đối chứng. Quần thể sử dụng tảo cô đặc dạng lỏng-thí

nghiệm có các chỉ tiêu đánh giá không khác biệt so với vi tảo tươi tương ứng và tảo cô đặc dạng

nhão-đối chứng. Tảo cô đặc N. oculata, sản phẩm khoa học của đề tài, làm thức ăn thay thế vi tảo

tươi tương ứng trong nuôi sinh khối luân trùng, dạng lỏng cho kết quả không khác biệt, dạng nhão

cho kết quả ít nhất 80% so với tảo tươi.

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 1

Trang 1

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 2

Trang 2

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 3

Trang 3

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 4

Trang 4

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 5

Trang 5

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 6

Trang 6

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 7

Trang 7

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 8

Trang 8

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 9

Trang 9

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang xuanhieu 20120
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis

Sử dụng tảo cô đặc Nannochloropsis oculata làm thức ăn cho luân trùng Brachionus plicatilis
ủa luân trùng “nhão TN” (47,62%) và “lỏng 
TN” (44,60%) cao hơn “tảo tươi” (43,79%). 
Hàm lượng lipid của luân trùng “tảo tươi” 
(10,34%), “nhão TN” (9,16%) và “lỏng TN” 
(10,07%). 
IV. THẢO LUẬN
NH3 dao động ở mức 0-0,06 mg.l
-1, TAN 
ở mức 15-35 mg.l-1 nhờ vào việc sử dụng 
Sodium hydroxymethasulfonate. Đây là một 
formaldehydebisulfite có thể kết hợp với ammonia 
tạo thành muối aminomethanesulfonate, làm 
giảm TAN. Bentley và ctv., (2008) đã thành 
công khi sử dụng hóa chất trung hòa ammonia 
này để nuôi B. rotundiformis đạt mật độ cao 
(3000 ct.ml-1) trong hệ thống tuần hoàn, nuôi 
liên tục, sử dụng thức ăn là Nannochloropsis cô 
đặc. pH giảm dần theo thời gian nuôi, nhờ sử 
dụng sodium bicarbonate để đệm môi trường 
nước nuôi, tránh pH giảm quá thấp do ion 
hydrogen phóng thích từ phản ứng trung hòa 
ammonia của Sodium hydroxymethasulfonate. 
Yoshimura và ctv., (1996) có thể nuôi luân trùng 
đạt mật độ cao nhờ duy trì pH 7 bởi HCl và 
NaOH. Nghiên cứu đã sử dụng Vitamin B12 
bổ sung vào môi trường nước nuôi, luân trùng 
cần Vitamin B12 cho sự phát triển của quần thể, 
tăng TĐTT, giúp ổn định việc nuôi (Hirayama, 
1990). Môi trường nước nuôi được cải thiện 
nhờ vào miếng bọt biển hấp thụ chất dơ, đưa ra 
khỏi bể nuôi hàng ngày.
TĐTT của B. plicatilis bị ảnh hưởng chủ 
yếu bởi thức ăn, loại tảo và kích cỡ tế bào tảo. 
Nannochloropsis từ lâu đã được chứng minh là 
nguồn thức ăn cho TĐTT cao (Ahmad, 1991). 
Trong nghiên cứu này, N. oculata được sử dụng 
làm nguồn thức ăn duy nhất cho luân trùng B. 
plicatilis, từ mật độ ban đầu 200 ct.ml-1, sau 
6 ngày nuôi, quần thể “tảo tươi” đạt mật độ 
891±31 ct.ml-1, TĐTT 0,25±0,01 .ngày-1; quần 
thể “nhão ĐC” đạt mật độ 826±42 ct.ml-1, 
TĐTT 0,24±0,01 .ngày-1; quần thể “lỏng TN” 
đạt mật độ 897±49 ct.ml-1, TĐTT 0,25±0,01 
.ngày-1. Kết quả này có thể so sánh với tác giả 
Fu và ctv., (1997), khi nuôi B. plicatilis ở dung 
tích 0,5m3, sử dụng Chlorella cô đặc, cho TĐTT 
0,25 .ngày-1. Hay tác giả Pfeiffer và Ludwig 
(2007), khi nuôi B. plicatilis trong bể nhựa 60 
lít, thức ăn là tảo cô đặc Nannochloropsis (Reed 
Mariculture, Campbell, California), mật độ 
ban đầu 500 ct.ml-1, đạt cực đại 1.500 ct.ml-1, 
TĐTT từ 0,28±0,17 .ngày-1 đến 0,33±0,26. 
ngày-1. Cũng như kết quả của Trung tâm khảo 
cứu Artemia, nuôi B. plicatilis bằng ProvifeedTM 
Nannochloropsis (www.proviron.com) từ mật 
độ ban đầu 350 ct.ml-1, sau 4 ngày nuôi, đạt 
897±51 ct.ml-1. Mật độ cực đại và TĐTT của 
69TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
quần thể “lỏng TN” có thể so sánh với “tảo 
tươi” và “nhão ĐC”. Trong khi đó, mật độ cực 
đại và TĐTT của quần thể “nhão TN” thấp hơn 
“tảo tươi” và “nhão ĐC”. Có sự khác biệt về 
mật độ và TĐTT giữa hai quần thể “nhão TN” 
và “lỏng TN”, giải thích điều này có thể là do 
chất lượng tế bào N. oculata khác nhau ở hai 
dạng sản phẩm. Dạng lỏng có mật độ 6x109 
tb.ml-1, trong khi đó dạng nhão có mật độ cao 
hơn gấp 10 lần, 60x109 tb.ml-1. Vào thời điểm 
bắt đầu thí nghiệm, sản phẩm đã có thời gian 
bảo quản 5 tuần, tỷ lệ tế bào chết ở dạng nhão 
cao hơn dạng lỏng. Theo Mauchline (1998) và 
Stottrup (2000), các loài ăn lọc có chọn lọc có 
thể thích lọc tế bào tảo còn sống làm thức ăn 
và tránh lọc các tế bào đã chết. Tuy nhiên luân 
trùng là loài ăn lọc không chọn lọc, nhưng có 
thể các tế bào tảo chết không lơ lửng trong cột 
nước. Hơn nữa, có thể có sự khác biệt về các 
hóa chất độc hại về sinh học giữa tảo sống và đã 
chết. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của tảo 
tươi và cô đặc N. oculata lên mật độ và TĐSS 
của B. plicatilis trong nghiên cứu này đồng nhất 
với của Lubzens và ctv., (1995), rằng sản phẩm 
cô đặc dạng nhão Nannochloropsis thu hoạch 
bằng ly tâm, bảo quản ở -20 và -70ºC không cho 
TĐSS của B. plicatilis như tảo tươi tương ứng. 
Tỷ lệ mang trứng của quần thể là thông số 
để dự đoán điều kiện của bể nuôi sau 24 giờ, 
tỷ lệ này bị giảm ở nồng độ ammonia cao hay 
khi quần thể bị thiếu ăn (Snell và ctv., 1987). 
Tỷ lệ mang trứng của các quần thể B. plicatilis 
trong nghiên cứu này vào ngày nuôi 1 từ 32-
39%, giảm dần theo thời gian nuôi, đến ngày 
20 chỉ còn 8-17%. Từ ngày 21-24 trở đi, quần 
thể không có khả năng tăng mật độ. Điều này 
phù hợp với kết luận của Snell và ctv., (1987), 
khi quần thể có tỷ lệ mang trứng giảm xuống 
dưới 13%, sẽ bị tàn. Quần thể B. plicatilis nuôi 
bằng Chlorella cô đặc có tỷ lệ mang trứng 26% 
(Jabeur và ctv., 2013), nuôi bằng ProvifeedTM 
Nannochloropsis (www.proviron.com, 2013) có 
tỷ lệ mang trứng 21±3%. Trong nghiên cứu này, 
quần thể sử dụng tảo tươi có tỷ lệ mang trứng 
cao hơn 3 quần thể còn lại (ngoại trừ ngày 10 và 
16), cho thấy có sự ảnh hưởng của chất lượng 
tảo tươi và tảo cô đặc lên tỷ lệ mang trứng của 
luân trùng sử dụng. Tuy nhiên, dạng nhão và 
lỏng TN có thể so sánh với dạng nhão ĐC khi 
so sánh ở khía cạnh ảnh hưởng của chất lượng 
tảo lên tỷ lệ mang trứng của quần thể luân trùng 
sử dụng.
Sản lượng thu hoạch hàng ngày giữa 4 
quần thể không có sự khác biệt, nhưng tổng 
sản lượng thu hoạch của quần thể “nhão TN” 
thấp hơn các quần thể còn lại, do khác nhau 
ở số ngày thu hoạch. Giải thích điều này là 
do chất lượng của tảo dạng nhão và lỏng TN 
có khác nhau, tỷ lệ tế bào chết ở dạng nhão 
cao hơn dạng lỏng. Tế bào tảo chết tuy chưa 
gây ảnh hưởng đến ammonia và pH (không 
có sự khác biệt giữa các nghiệm thức) nước 
nuôi, có thể có các ảnh hưởng mà trong khuôn 
khổ của nghiên cứu này chưa tìm thấy được, 
chẳng hạn các hóa chất độc hại về sinh học mà 
Mauchline (1998) và Stottrup (2000) đã đề 
cập. Hoặc tảo chết bám vào thành và đáy bể 
gây ảnh hưởng xấu đến quần thể luân trùng. 
Tuy nhiên, khả năng nâng cao tổng sản lượng 
của quần thể sử dụng nhão TN để có thể so 
sánh bằng 3 quần thể còn lại là có thể. Kéo 
dài thời gian thu hoạch bằng cách vệ sinh bể 
1-2 lần nhiều hơn các quần thể còn lại, có khả 
năng giúp quần thể tăng TĐTT trở lại, như 
trong trường hợp ngày 10. 
Theo phân tích của Caric và ctv., (1993) 
luân trùng cho ăn bằng tảo tươi Nannochlo-
ropsis sp. có hàm lượng protein 34,3-35,3%, 
lipid 11,1-17,2% và tro 5,0-8,3% TLK. Trong 
nghiên cứu này, luân trùng sử dụng N. ocu-
70 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
lata có hàm lượng protein 44,60-47,62%, 
lipid 8,28-10,34%, carbohydrate 16,48-30,22 
và tro 15,11-28,40% TLK. Hàm lượng pro-
tein của luân trùng “nhão TN” và “lỏng TN” 
không những so sánh được mà còn cao hơn 
“tảo tươi”. Hàm lượng lipid của luân trùng 
“tảo tươi” (10,34%), “nhão TN” (9,16%) và 
“lỏng TN” (10,07%) tuy không khác nhau 
nhiều, nhưng không kết luận một cách chính 
xác sự khác biệt có ý nghĩa hay không do số 
liệu là tuyệt đối, không có trung bình. Lubzens 
và ctv., (1995) không tìm thấy sự khác biệt ở 
hàm lượng lipid giữa luân trùng sử dụng Nan-
nochloropsis sp. tươi (15,5µg/106 luân trùng) 
và cô đặc (12,0µg/106 luân trùng), sự khác 
biệt không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sản phẩm tảo 
N. oculata cô đặc của đề tài có thể sử dụng để 
nuôi sinh khối luân trùng. Kết quả có thể so 
sánh với vi tảo tươi tương ứng trong trường 
hợp dạng lỏng hay chỉ đạt khoảng 80% trong 
trường hợp dạng nhão. Sử dụng sản phẩm tảo 
cô đặc này giúp cho người SXG có thể giải 
quyết được nhiều vấn đề: (1) Tảo cô đặc dễ 
dàng vận chuyển, lưu giữ/bảo quản trong một 
khoảng thời gian tương đối dài, giúp người 
sản xuất giống không còn phụ thuộc trực tiếp 
vào việc sản xuất sinh khối tảo tươi. Đặc biệt 
ở những cơ sở sản xuất giống không đủ điều 
kiện cơ sở vật chất và kỹ thuật để nuôi sinh 
khối tảo, việc nuôi phụ thuộc vào thời tiết/mùa 
vụ. Bởi vì nuôi sinh khối luân trùng bằng men 
bánh mì không ổn định và luân trùng thiếu 
hàm lượng của DHA và EPA. Tảo cô đặc có 
thể nuôi luân trùng đạt mật độ cao, điều này 
hiếm khi đạt được khi nuôi bằng tảo tươi do tảo 
có mật độ thấp khi nuôi ở bể hở và raceway. (2) 
Việc nuôi tảo không nhất thiết phải ở ngay nơi 
sản xuất giống, có thể nuôi ở nơi có điều kiện 
đảm bảo cho chất lượng tảo tốt nhất. (3) Giá 
trị dinh dưỡng của tảo được xác định trước khi 
làm thức ăn cho luân trùng, vì vậy chất lượng 
luân trùng được đảm bảo. (4) Có thể phát triển 
sản xuất trứng nghỉ, do kiểu sinh sản này bị 
ảnh hưởng bởi số lượng lớn sinh khối tảo làm 
thức ăn cho luân trùng (Hamada và Hagiwara, 
1993). Sản xuất trứng nghỉ đòi hỏi mật độ tảo 
cao, cao hơn việc nuôi sinh khối đơn thuần. 
Điều này chỉ có thể khi có sản phẩm tảo cô đặc. 
Sản phẩm khi sử dụng có thể đặt hàng trước và 
đảm bảo đủ lượng để sử dụng trong thời gian 
cần thiết tạo trứng nghỉ, khoảng 15-20 ngày. 
V. KẾT LUẬN 
1. Sản phẩm tảo cô đặc dạng nhão thí 
nghiệm khi sử dụng làm thức ăn cho luân trùng 
B. plicatilis so với tảo tươi cho mật độ thấp hơn, 
đạt 89%; TĐTT thấp hơn, đạt 92%; tỷ lệ mang 
trứng thấp hơn, đạt 82%; sản lượng thu hoạch 
hàng ngày không khác biệt; tổng sản lượng thu 
hoạch thấp hơn, đạt 80%.
2. Sản phẩm tảo cô đặc dạng nhão thí 
nghiệm khi sử dụng làm thức ăn cho luân trùng 
B. plicatilis có thể so sánh được với tảo cô đặc 
sản phẩm thương mại ở mật độ, TĐTT, tỷ lệ 
mang trứng, sản lượng thu hoạch hàng ngày và 
tổng sản lượng.
3. Sản phẩm tảo cô đặc dạng lỏng thí 
nghiệm khi sử dụng làm thức ăn cho luân trùng 
B. plicatilis có thể so sánh được với tảo tươi 
và tảo cô đặc sản phẩm thương mại ở mật độ, 
TĐTT, tỷ lệ mang trứng, sản lượng thu hoạch 
hàng ngày và tổng sản lượng.
71TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
4. Sản phẩm tảo cô đặc N. oculata thí 
nghiệm là thức ăn thích hợp cho việc nuôi sinh 
khối luân trùng B. plicatilis. Dạng lỏng có thể 
thay thế hoàn toàn tảo tươi, dạng nhão khi thay 
thế cho kết quả khoảng 80% so với tảo tươi.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện từ kinh phí đề 
tài “Nghiên cứu công nghệ nuôi, thu sinh khối vi 
tảo I. galbana, N. oculata phục vụ sản xuất giống 
hải sản”, thuộc chương trình Công nghệ sinh học 
Nông nghiệp, Thủy sản của Bộ NN & PTNT. 
Tác giả chân thành cảm ơn cộng tác viên, Viện 
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đã tạo mọi 
điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu thành công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ahmad, A.T., 1991. Optimum feeding rate of the 
rotifer Brachionus plicatilis on the marine alga 
Nannochloropsis sp. J. World Aquacult. Sot. 22, 
230-234.
Bentley, C.D., Carroll, P.M., Watanabe, W.O., 2008. 
Intensive Rotifer Production in a Pilot-scale 
Continuous Culture Recirculating System Using 
Nonviable Microalgae and an Ammonia Neutralizer. 
J. World Aquacult. Sot. 39 (5), 625-635. 
Caric, M.J., Sanko-Njire, Skaramuca, B., 1993. Dietary 
effects of different feeds on the biochemicals 
composition of rotifer (Brachionus plicatilis 
Muler). Aquaculture 110, 141-150.
Fu, Y., Hada, A., Yamashita, T., Yoshida, Y., Hino, 
A., 1997. Development of a continuous culture 
system for stable mass production of the marine 
rotifer Brachionus. Hydrobiologia 358, 145-151.
Gatesoupe, F.J., Liquet, P., 1981. Practical diet for 
mass culture of the rotifer Brachionus plicatilis: 
application to larval rearing of sea bass, 
Dicentrarchus labrax. Aquaculture 22, 149-163.
Hirayama, K., 1990. A physiological approach to 
problems of mass culture of the rotifer. NOAA 
Technical report No. NMFS 85. U.S. Dept. 
Commerce, U.S.A., 73-79.
Jabeur, C., Merghni, A., Kamoun, F., 2013. Feeding 
Rotifers Brachionus plicatilis with microalgae 
cultivated in Tunisia. J. Environ. Sci. Toxicol. 
Food Tech. 4 (5), 105-112.
James, C.M., Abu-Rezeq, T.S., 1988. Effect of different 
cell densities of Chlorella capsulate and a marine 
Chlorella sp. for feeding the rotifer Brachionus 
plicatilis. Aquaculture 69, 43-56.
Jones, D.A., Kamarudin, M.S., Le Vay, L., 1993. The 
potential for replacement of live feeds in larval 
culture. J. World Aquacult. Sot. 24, 199-210.
Lubzens, E., Gibson, O., Zmora, O., Sukenik, A., 
1995. Potential advantages of frozen algae 
(Nannochloropsis sp.) for rotifer (Brachionus 
plicatilis) culture. Aquaculture 133, 295- 309.
Pfeiffer, T.J., Ludwig, G.M., 2007. Small-Scale System 
for the Mass Production of Rotifers Using Algal 
Paste. N. Am. J. Aquacult. 69, 239-243. 
Rezeq, T.A., James, C.M., 1987. Production and 
nutritional quality of the rotifer Brachionus 
plicatilis fed marine Chlorella sp. at different cell 
densities. Hydrobiologia 147, 257-261.
Snell, T.W., Childress, M.J., Boyer, E.M., Hoff, F.H., 
1987. Assessing the status of rotifer mass cultures. 
J. World Aquacult. Soc. 18, 270-277.
Yoshimura, K., Hagiwara, A., Yoshimatsu, T., 
Kitajima., C., 1996. Culture technology of marine 
rotifers and the implication for intensive culture 
of marine fish in Japan. Mar. Freshwater Res. 47, 
217-222. 
Yu, J.P., Hirayama, K., 1986. The effect of un-ionized 
ammonia on the population growth of the rotifer 
in mass culture. B. Japan. Soc. Sci. Fish. 52, 
1509-1513. 
72 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
 CONDENSED MICROALGAE Nannochloropsis oculata 
AS FEED FOR ROTIFER Brachionus plicatilis
Dang To Van Cam1*, Dang Thi Nguyen Nhan1
ABSTRACT
Condensed microalgae Nannochloropsis oculata in paste and concentrated forms were studied as 
feed for rotifer Brachionus plicatilis, replaced to fresh one. Rotifers are cultured in composite cyl-
inder tanks, volume of 500 litres. Microalgae N. oculata is used as the sole feed at different forms 
such as paste or concentrated-experimental product, comparing with fresh or paste-commercial 
product as control. Parametters such as maximal density, specific growth rate, egg ratio, daily yield 
and total yield are used to evaluate the effect of feed on population. Population was used N. oculata 
in paste form-experiment as feed had parametters lower than those from fresh one, for instance 
maximal density at 89%, specific growth rate at 92%, egg ratio at 82%, total yield at 80%; no dif-
ference compared to those from N. oculata in paste form-control. Population was used N. oculata 
in concentrated form-experiment as feed had parametters equal to those from fresh one and paste 
form-control. In conclusion, condensed microalgae N. oculata-experimental product are able to 
replaced to fresh one as feed for rotifer. The products are in paste and concentrated forms leading to 
80% and equal results obtaining from fresh one, respectively.
Keywords: Brachionus plicatilis, concentrated microgalgae, Nannochloropsis oculata, 
paste microalgae, 
Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng
Ngày nhận bài: 10/8/2014
Ngày thông qua phản biện: 26/8/2014
Ngày duyệt đăng: 05/9/2014
1 National Breeding Center for Southern Marine Aquaculture - Research Institute for Aquaculture No.2. 
* Email: camdtv.ria2@mard.gov.vn 

File đính kèm:

  • pdfsu_dung_tao_co_dac_nannochloropsis_oculata_lam_thuc_an_cho_l.pdf