So sánh hiệu quả sử dụng kích thích tố khác nhau kích thích sinh sản cá bông lau (Pangasius krempfi) trong điều kiện nuôi nhốt
TÓM TẮT
Cá bông lau không sinh sản tự nhiên trong điều kiện nuôi nhốt mà cần phải có sự tác dụng của kích
dục tố. Đối với cá cái dùng phương pháp tiêm nhiều liều, bao gồm 4 liều dẫn là 500 UI HCG/kg
hoặc não thùy tươi của cá chép (3 kg cá cho não dùng cho 8 kg cá nhận não), một liều sơ bộ 1.500
UIHCG/kg và một liều quyết định 6.000 UI HCG/kg. Đối với cá đực chỉ dùng một liều 2.000 UI
HCG/kg, tiêm cùng thời điểm với liều quyết định của cá cái. Thời gian hiệu ứng kích thích tố dao
động từ 9 giờ 30 đến 14 giờ 30 phút, tỷ lệ thụ tinh dao động từ 7,1 – 73,4% (trung bình 39,9 ±
24,9%). Cá nở sau thời gian từ 24 đến 36 giờ ở nhiệt độ nước từ 27 – 29 0C, tỷ lệ nở dao động từ
57 – 91,5% (trung bình 66,4 ± 14,5%).
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: So sánh hiệu quả sử dụng kích thích tố khác nhau kích thích sinh sản cá bông lau (Pangasius krempfi) trong điều kiện nuôi nhốt
điều kiện nhân tạo vì các yếu tố sinh thái không đầy đủ. Trong tự nhiên, cá bông lau di cư sinh sản rất xa trong thời gian khá dài. Trong thời gian này, cá tích lũy cho việc phát triển tuyến sinh dục, để khi đến bãi đẻ sản phẩm sinh dục đã chín muồi và chúng sẵn sàng tham gia sinh sản. Do đó, trong sinh sản nhân tạo cần phải có thời gian, cùng với sự sử dụng kích dục tố để kích thích tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn chín muồi sinh dục thì cá mới có khả năng rụng trứng. Ở cá bông lau đối với cá cái chúng tôi sử dụng phép tiêm nhiều liều để thúc đẩy mức độ thành thục của buồng trứng cá cái lên một bước và làm tăng mức độ cảm ứng của buồng trứng đối với tác dụng của chất kích thích sinh sản tiến tới rụng trứng. Phép tiêm nhiều lần đã được nhiều nhà khoa học áp dụng. Ching Ming Kon et al 1974 đã tiêm nhiều liều thấp não thùy để thúc đẩy buồng trứng ở giai đoạn III của cá đối (Mugil cephalus) đạt thành thục và tiến hành sinh sản đạt kết quả. Với các loài cá nuôi, do sinh trưởng lâu dài trong điều kiện nuôi nhốt cho nên trước khi kích thích sinh sản nếu không xử lý thích đáng thì nói chung trạng thái sinh lý của chúng không chuẩn bị đầy đủ để chuyển sang giai đoạn đẻ trứng. Vì thế đối với những cá bị xem là chưa chuẩn bị tốt về mặt sinh lý để chuyển sang đẻ trứng, nếu chỉ dùng phương pháp tiêm một lần toàn bộ lượng thuốc thì nói 9TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 chung nhất định sẽ có ảnh hưởng không tốt, tạo nên những phản ứng sinh lý vội gấp, ảnh hưởng đến sự rụng trứng (Phạm Văn Khánh, 1996) Khi sử dụng đơn HCG, đối với những tế bào trứng tăng ít hoặc không tăng kích thước có thể do tế bào không hấp thu được kích dục tố hoặc hấp thu rất ít (Bảng 2). Điều này cho thấy tế bào trứng hấp thu kích thích tố để chuyển hóa đến giai đoạn chín. Chỉ trừ có một trường hợp ngoại lệ sau khi tiêm 4 liều dẫn tế bào trứng vẫn không tăng, nguyên nhân là do tế bào trứng của cá thể này đã đạt đến giai đoạn chín mùi sinh dục không còn khả năng tăng thêm kích thước nữa (Bảng 3). Khi sử dụng não thùy thì hầu hết tế bào trứng của các cá cái được tiêm đều tăng kích thước. Tiêm dẫn bằng não thùy tế bào hấp thu tốt hơn, sau khi tiêm kích thích tố dẫn bằng não thùy thể cá thì kích thước tế bào trứng to hơn, căng tròn hơn và đạt đến giai đoạn chín muồi sinh dục, chỉ cần tiêm thêm một liều sơ bộ và một liều quyết định (đủ lượng thuốc) thì trứng đạt đến giai đoạn chín và rụng, cho nên hiệu quả của việc sử dụng kích thích tố não thùy và HCG cho tỷ lệ cá rụng trứng khá cao 72,7%, trong khi đó kết quả cá rụng trứng khi sử dụng đơn thuần HCG chỉ đạt 28% (Bảng 4). Theo Nguyễn Tuần, 2000 cho rằng tỷ lệ rụng trứng của cá basa là 71,4%, ở cá tra (Phạm Văn Khánh, 1996) là 70% tương đương với tỷ lệ rụng trứng của cá bông lau khi sử dụng chất kích thích kết hợp, hơi thấp hơn cá lăng vàng của (Ngô Thị Ngọc Loan, 2008) tỷ lệ cá rụng trứng từ 76 – 80%, và thấp hơn nhiều so với cá hú tỷ lệ cá rụng trứng đạt từ 88,9 – 100% (Đỗ Minh Trí, 2008). Trong bảng 2 và bảng 3 cho thấy đường kính trứng cá bông lau ở giai đoạn IV đạt cực đại để sinh sản được dao động từ 1,23 ± 0,14 mm đến 1,43 ± 0,17, kích thước này lớn hơn đường kính trứng của một loài cá da trơn khác như cá hú khi thành thục (giai đoạn IV) có đường kính trứng cực đại 0,9 – 1,07 mm (Đỗ Minh Trí, 2008), đường kính trứng cá tra từ 1 – 1,1 mm (Phạm Văn Khánh, 1996), đường kính trứng cá leo thì nhỏ hơn rất nhiều so với trứng cá bông lau dao động từ 0,88 ± 0,09 đến 0,92 ± 0,07 mm (Ngô Vương Hiếu Tính, 2008). Theo Nguyễn Tuần (2000) thì đường kính trứng cá basa từ 1,8 đến 2.0 mm lớn hơn nhiều so với cá bông lau. Sức sinh sản thực tế của cá khi sử dụng kích thích não thùy và HCG hơi thấp hơn so với việc sử dụng HCG đơn thuần, điều này phần nào có liên quan đến hệ số thành thục của cá. Do chế độ dinh dưỡng và điều kiện môi trường nuôi vỗ cá bố mẹ chưa thích hợp và chưa ổn định vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu nhiều hơn. 4.2. Thời gian hiệu ứng Khi các điều kiện sinh thái, sinh lý thích hợp và đáp ứng cho quá trình đẻ trứng, các noãn bào chuyển sang giai đoạn chín muồi sinh dục chuẩn bị cho quá trình chín và rụng trứng. Thời gian hiệu ứng kích thích tố là khoảng thời gian từ lúc tiêm liều quyết định đến khi cá bắt đầu rụng trứng hàng loạt. Thời gian hiệu ứng phụ thuộc vào mức độ chín muồi sinh dục, tình trạng sinh lý của từng cá thể, các tác nhân gây đẻ và các yếu tố môi trường như dòng chảy, nhiệt độ nước, giới tính, giá thể (Nguyễn Tuần, 2000). Việc xác định thời gian hiệu ứng nhằm theo dõi chính xác thời điểm rụng trứng để tiến hành sinh sản nhân tạo vuốt khô được kịp thời. Những trường hợp trứng đã rụng mà nằm lâu trong buồng trứng sẽ làm giảm tỷ lệ thụ tinh (Phạm Văn Khánh, 1996) Thời gian hiệu ứng kích thích tố của cá bông lau có sự dao động lớn, từ 9 giờ 30 đến 14 giờ 30 tập trung trong khoảng 12 đến 14 giờ, tuy nhiên nếu so sánh với thời gian hiệu ứng của cá basa (Nguyễn Tuần, 2000) dao động từ 6 đến 16 giờ thì khoảng thời gian hiệu ứng kích tố của cá bông lau dao động ngắn hơn. Ở cá tra theo Phạm Văn Khánh (1996) thì thời gian hiệu 10 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ứng kích tố ngăn hơn trung bình là 9 giờ và dao động ngắn hơn từ 8 đến 10 giờ, ở cá lăng vàng thì thời gian hiệu ứng có sự dao động ngắn hơn từ 23 giờ 25 phút đến 23 giờ 50 phút (Ngô Thị Ngọc Loan, 2008), theo Đỗ Minh Trí (2008), thì thời gian hiệu kích thích tố của cá hú cũng có sự dao động ngắn từ 9 giờ 15 phút – 10 giờ 45 phút so với cá bông lau, đối với cá leo thì thời hiệu ứng kích tố là 10 giờ 05 phút (Ngô Vương Hiếu Tính, 2008). Một số nguyên nhân có thể làm thay đổi thời gian hiệu ứng như: nhiệt độ nước, liều lượng và hoạt tính của tác nhân gây rụng trứng, chủ yếu là mức độ thành thục của cá cái (Nguyễn Tuần, 2000). Thực tế cho thấy, trong sinh sản nhân tạo cá bông lau ở những cá thể cái có sản phẩm sinh dục chín muồi, và các tế bào trứng đạt mức độ đồng đều nhau thì thời gian hiệu ứng sẽ ngắn hơn các cá thể khác, như trường hợp ở bảng 5 có con cá cái số 8 tự nhiên có thời gian hiệu ứng là 9:30 phút ngắn hơn nhiều so với các cá thể khác, với đường kính trứng trước khi tiêm chất kích thích là 1,33 ± 0,02 mm. 4.3. Thụ tinh và ấp trứng Nguyễn Văn Kiểm (2005) cho rằng quá trình thụ tinh của trứng xảy ra vào giữa thời kỳ giảm phân II. Sau khi tinh trùng chui vào trứng qua noãn khổng, lập tức trứng hình thành màng thụ tinh để ngăn cản không cho tinh trùng thứ hai xâm nhập vào. Sau 5 phút thì tinh trùng hình thành ánh sao và 10 phút sau trứng hoàn thành sự phân cắt lần 2. Sau 20 phút nhân của tinh trùng và trứng kết hợp với nhau thành hợp tử và hoàn thành quá trình thụ tinh. Ngay khi rơi vào nước là bắt đầu sự hoạt hóa trứng. Trước tiên là tách màng thụ tinh và tạo xoang quanh noãn do các không bào vỏ (các hạt vỏ) trương nước và vỡ ra. Quá trình vỡ hạt vỏ làm cho lớp vỏ tách làm đôi. Bên trong chứa đầy chất dịch xuất hiện khe quanh noãn. Phần ngoài lớp vỏ, cùng với một phần chất chứa của hạt vỏ, gắn với màng noãn hoàng và màng phóng xạ tạo nên màng thụ tinh. Phần trong của lớp vỏ đông đặc lại và hình thành một lớp vỏ mới của trứng thụ tinh. Một phần chất chính của hạt vỏ tiếp tục hấp thụ nước làm cho xoang quanh noãn tiếp tục lớn lên. Màng thụ tinh và xoang quanh noãn có vai trò ngăn cản không cho các tinh trùng khác xâm nhập. Đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu đề cập đến tập tính sinh sản tự nhiên hoặc kích thích cho cá đẻ tự nhiên cho các loài trong họ cá tra Pangasiidae. Các tác giả chỉ đưa ra một phương pháp thụ tinh khô như cá tra (Phạm Văn Khánh, 1996) Tỷ lệ trứng thụ tinh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như chất lượng sản phẩm sinh dục đó là trứng và tinh trùng, các thao tác cho cá sinh sản nhân tạo đòi hỏi phải nhanh, đúng giờ, tỉ mỉ từng khâu vì một khi trứng và tinh trùng ra khỏi cơ thể cá thì chúng chỉ sống được trong thời gian rất ngắn và quá trình thụ tinh xảy ra rất nhanh. Quá trình thụ tinh và nở của trứng phụ thuộc vào chất lượng của tế bào trứng và chất lượng của tinh trùng, ngoài ra nó còn phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh như chất lượng nước, các yếu tố môi trường như nhiệt độ, ôxy, pH. Đối với trứng cá bông lau ấp ở nhiệt từ 27 – 30°C thì thời gian nở kéo dài từ 24 đến 36 giờ. Kết quả ở Bảng 5 cho thấy tỷ lệ nở của trứng trong trường hợp sử dụng não thùy và HCG dao động từ 50,5 – 93% (trung bình 74,1 ± 16,6%) cao hơn với trường hợp chỉ sử dụng một loại kích thích tố HCG đơn thuần dao động từ 54,1 – 91,5% (trung bình 66,4 ± 14,5%). Tỷ lệ thụ tinh của trường hợp sử dụng não thùy và HCG dao động từ 35,8 – 96,4% cao hơn rất nhiều so với trường hợp chỉ sử dụng một loại HCG đơn thuần dao động từ 7,14 – 73,3% bởi vì khi sử dụng não thùy tươi của cá chép để tiêm dẫn 11TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 cho cá cái trong thời gian dài (4 ngày) tạo điều kiện cho trứng hấp thu được kích thích phát triển đồng đều, căng tròn đạt đến giai đoạn chín muồi sinh dục và sẵn sàng rụng khi có tác động của kích thích tố HCG làm cho quá trình rụng trứng xảy ra. Một nguyên nhân nữa làm cho tỷ lệ thụ tinh thấp ở trường hợp chỉ sử dùng đơn thuần một loại HCG là có một vài trường hợp cá cái và cá đực thành thục chưa tốt, có trường hợp cá đực thành thục tốt cá cái không tốt và ngược lại cho nên vấn đề này cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa. Ngoài ra sự nở của trứng còn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường nước, khi nhiệt độ nước xuống dưới 27oC thì tỷ lệ nở đạt rất thấp tỷ lệ cá dị hình nhiều, nếu vượt quá ngưỡng cho phép thì trứng sẽ không nở. Theo Nguyễn Tuần (2000) thì tỷ lệ thụ tinh và nở của cá basa chỉ đạt ở mức trung bình, nhưng khoảng dao động không lớn lần lượt là 52,0 ± 3,9% và 48,0 ± 4,0%. Ở cá tra thì tỷ lệ thụ tinh và nở đạt tương đương với cá bông lau lần lượt là 70% và 70% (Phạm Văn Khánh, 1996). Ở cá hú thì tỷ lệ thụ tinh và nở đạt cao hơn cá bông lau và ổn định hơn dao động ít lần lượt từ 77 – 84,4% và 74 -83,9% (Đỗ Minh Trí, 2008). Tỷ lệ thụ tinh và nở của cá leo tương đương với cá bông lau lần lượt là 59,3% và 54,0% (Ngô Vương Hiếu Tính, 2008). V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết luận Cho cá bông lau sinh sản nhân tạo trong điều kiện nuôi nhốt đối với cá cái dùng phương pháp tiêm nhiều lần sử dụng não thùy thể kết hợp với HCG đạt hiệu quả tốt hơn so với trường hợp chỉ sử dụng một loại HCG đơn thuần. Tỷ lệ cá rụng trứng trong trường hợp sử dụng đơn thuần một loại kích thích tố HCG chỉ đạt 35,4%, trong khi đó trường hợp sử dụng kết hợp não thùy thể kết hợp với HCG thì tỷ lệ cá rụng trứng đạt khá cao tới 72,7%. Tỷ lệ thụ tinh và nở trong trường hợp sử dụng HCG đơn thuần lần lượt dao động từ 7,1% đến 73,4% (trung bình 39,9 ± 24,9%) và từ 57,0% đến 91,5% (trung bình 66,4 ± 14,5%) thấp hơn sử dụng kết hợp não thùy thể và HCG dao động từ 35,8 – 96,4% (trung bình 69,4 ± 26,2%), từ 50,5 – 93% (trung bình 74,1 ± 16,6%). Đề xuất Cần hoàn thiện khâu kỹ thuật nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ để nâng cao chất lượng sản phẩm sinh dục, làm cho quá trình thụ tinh và sự nở của trứng tốt và ổn định hơn. Tiếp tục bố trí thí nghiệm kích thích sinh sản bằng sự sử dụng kết hợp não thùy với HCG và sử dụng HCG đơn thuần để có thêm nhiều kết quả tốt hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Tường Anh, 1997. Một số vấn đề về nội tiết học sinh sản cá, Nhà xuất bản Nông nghiệp, 68 trang Phạm Văn Khánh, 1996. Sinh sản nhân tạo và nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Phó tiến sĩ Nông nghiệp, Đại học Thủy sản Nha Trang, 168 trang. Nguyễn Văn Kiểm, 2005. Kỹ thuật sản xuất cá giống, tủ sách Đại học Cần Thơ, 95 trang. Ngô Thị Ngọc Loan, 2008. Hiệu quả gây chín và rụng trứng của 17, 20 P (17α, 20β-Dihydroxy- 4-Pregnen-3-One) trên cá Tra (Pangasius hypophthalmus, Sauvage, 1878) và cá Lăng Vàng (Hemibagrus Nemurus, Valenciennes, 1839). Luận văn thạc sỹ sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên- TP- Hồ Chí Minh, 77 trang. Ngô Vương Hiếu Tính, 2008. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và ương cá Leo (Wallago attu Schneider, 1801). Luận văn tốt nghiệp cao học ngành thủy sản. Đại học Thủy sản Cần Thơ, 79 trang. 12 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 2 - THAÙNG 11/2013 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Đỗ Minh Trí, 2008. Thử nghiệm sản xuất giống cá Hú (Pangasius conchophilus). Luận văn tốt nghiệp cao học, ngành Nuôi trồng thủy sản. Đại học Cần Thơ. 94 trang. Nguyễn Tuần, 2000. Cơ sở sinh học, sinh sản nhân tạo cá basa (Pangasius bocourti Sauvage, 1880) ở các tỉnh Nam Bộ. Luận án Tiến sỹ Ngư loại học, Đại học Thủy sản Nha Trang, 127 trang. Cacot, Philippe, 1999. Descrition of the sexual cycle related to the environment and set up of the artificial propagation in floating cages and in ponds in the Mekong Delta. Proceeding of the mid-term Workshop of the “Catfish Asia Project” Can Tho Viet Nam 11 – 15 May 1998, 71 – 89. COMPARISION OF THE EFFICENCY OF USING DIFFERENT INDUCING AGENTS TO STIMULATE Pangasius krempfi SPAWNED IN CAPTIVITY CONDITION Huynh Huu Ngai1, Trinh Quoc Trong1, Thi Thanh Vinh1, Đang Van Truong1, Nguyen Thanh Nhan1, Ha Thi Ngoc Nga1, Le Trung Dinh1, Lê Hien Kha Tri1, Nguyen Van Hao2 ABSTRACT Pangasius krempfi does not reproduce naturally in captivity. Therefore the use of hypophysation is required. For females, several injections were used, including the first four injections with 500 IU of HCG (Human Chorionic Gonadotropin) per kg or pituitary gland extract of common carp (3 kg donor fish used for 8 kg receiver), preliminary one injection of 1,500 IU of HCG per kg, followed by a final injection of 6,000 IU of HCG per kg. For males, only one injection of 2,000 IU of HCG per kg was applied at the time of final injection for female. The females were stripped for eggs from 9.5 to 14.5 hours after the final injection. Fertilization rate varied from 7.1 to 73.4% (an average of 39.9±24.9%). Hatching took approximately 24 to 36 hours at water temperatures of 27 – 29°C. Hatching rate was found to be at 57.0 – 91.5% (an average of 66.4 ± 14.5%). Keywords: Pangasius krempfi, induced spawning, inducing agent Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng Ngày nhận bài: 18/9/2013 Ngày thông qua phản biện: 30/9/2013 Ngày duyệt đăng: 15/10/2013 1 National Breeding Center for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2 E-mail: ngaicaibe@yahoo.com.vn 2 Research Institute for Aquaculture No.2
File đính kèm:
- so_sanh_hieu_qua_su_dung_kich_thich_to_khac_nhau_kich_thich.pdf