Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp và kết cấu thị trường cạnh tranh
Kinh tế học đã chứng minh, cạnh tranh và độc quyền đều có ưu và
nhược điểm. Nếu đề cao quá mức cạnh tranh sẽ dẫn đến loại bỏ doanh
nghiệp lớn, từ đó không thể tận dụng được lợi thế của kinh tế quy mô,
đồng thời làm suy giảm sức cạnh tranh của một quốc gia do không thể
hình thành được doanh nghiệp lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường
quốc tế. Độc quyền có thể khắc phục được hạn chế của cạnh tranh
nhưng nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến hiện tượng tăng giá bán,
giảm sản lượng, chậm đổi mới kỹ thuật , từ đó gây thiệt hại cho người
tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế. Kết hợp ưu điểm của cạnh tranh và
độc quyền để tạo ra kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu là trào lưu
phổ biến hiện nay, được đa số các nước trên thế giới ủng hộ. Trong
phạm vi bài viết này, tác giả phân tích và đi đến kết luận rằng, việc
thừa nhận doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh là để hình thành
kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu, không phải để hình thành kết
cấu thị trường cạnh tranh tự do. Nói cách khác, quyền tự do cạnh tranh
không nên được hiểu đồng nhất với kết cấu thị trường cạnh tranh tự
do, có như vậy mới đảm bảo thực thi hiệu quả chính sách cạnh tranh
quốc gia.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp và kết cấu thị trường cạnh tranh
quyền đầu sỏ và độc quyền hoàn toàn. nâng cao hiệu suất kinh tế 7. Vì vậy, trường 3. Kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu phái Chicago phản đối sự can thiệp của Cạnh tranh hữu hiệu là khái niệm để chỉ chính phủ vào mức độ tập trung thị trường, kết cấu thị trường cạnh tranh có thể mang lại cho rằng chính phủ chỉ cần can thiệp và kiểm kết quả tốt nhất và khả thi nhất cho cả doanh soát hành vi của doanh nghiệp, trong đó chủ nghiệp và thị trường. yếu là ngăn cấm hành vi thỏa thuận về giá Từ những năm 70 của thế kỷ 20, với sự giữa các doanh nghiệp và hành vi phân chia gia tăng nhanh chóng của quá trình toàn cầu thị trường. Đối với tập trung kinh tế, ngoài hóa kinh tế, lý luận của trường phái Harvard trường hợp cá biệt liên quan đến tập trung đã trở nên lạc hậu. Bởi vì, nếu quá chú trọng quá mức, cơ quan quản lý cạnh tranh không vào bảo vệ doanh nghiệp nhỏ và vừa, không cần thiết phải can thiệp vào kết cấu thị thừa nhận sự tồn tại của các doanh nghiệp trường. Như vậy, trường phái Chicago chủ lớn thì các doanh nghiệp trong nước sẽ trương tiến hành can thiệp ở mức thấp nhất không thể có sức cạnh tranh quốc tế và sẽ đối với kết cấu thị trường. không phát huy được tác dụng của kinh tế Lý luận của trường phái Chicago có quy mô. Đại diện của trường phái Chicago những điểm hợp lý sau đây: là Bock và Posner cho rằng , không thể từ Thứ nhất , thực tế cho thấy độc quyền và một kết cấu thị trường nhất định để suy đoán cạnh tranh đều có tính hai mặt. Trên phương kết quả thị trường. Khác với trường phái diện độc quyền, ảnh hưởng tiêu cực của nó Harvard xuất phát từ kết cấu thị trường để là dễ dẫn đến tình trạng giảm sản lượng, tăng phân tích kết quả thị trường, trường phái giá bán, từ đó làm giảm hiệu suất phân phối Chicago tiến hành phân tích từ hành vi tài nguyên. Tuy nhiên, độc quyền vẫn có doanh nghiệp, vì vậy được gọi là “chủ nghĩa những tác động tích cực như có thể hình hành vi”. Trường phái Chicago cho rằng , lợi thành nên kinh tế quy mô, doanh nghiệp nhuận độc quyền là kết quả của cạnh tranh kinh tế quy mô sẽ có khả năng thúc đẩy tiến thị trường, doanh nghiệp có quy mô lớn là bộ và sáng tạo kỹ thuật. Trong một số ngành kết quả của sự tiến bộ kỹ thuật và sự tiến hóa đòi hỏi kỹ thuật cao như sản xuất máy bay, tự nhiên của tổ chức. Kinh tế quy mô lớn máy tính, viễn thông, các doanh nghiệp mang lại hiệu suất sản xuất có thể bảo đảm cần phải có quy mô lớn mới có thể đầu tư tối đa hóa phúc lợi người tiêu dùng và hiệu cho nghiên cứu và khai phá, từ đó, mới có quả phân bổ nguồn lực . Ngoài ra, tập trung khả năng sản xuất ra những sản phẩm mới, quá mức cũng có thể tạo ra hiệu suất kinh tế số lượng nhiều, kết quả là sẽ nhanh chóng nhất định. Chẳng hạn, bản thân hành vi định làm cho chi phí sản xuất được giảm thiểu. giá lũng đoạn của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy Như vậy, nếu Nhà nước can thiệp để loại bỏ việc gia nhập thị trường của các đối thủ cạnh các doanh nghiệp độc quyền thì cũng giống tranh tiềm năng; hoặc việc ấn định giá bán như “giết con ngỗng đẻ trứng vàng”, là cách lại sẽ có lợi đối với việc tăng cường sự cạnh suy nghĩ thiếu tầm nhìn xa trông rộng 8. tranh giữa các nhãn hiệu và ngăn ngừa hành Trên phương diện cạnh tranh, không thể vi “hưởng lợi miễn phí” (free-rider); hợp phủ nhận cạnh tranh có vai trò tối ưu hóa 7 Tài Long, Nghiên cứu quy chế lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, Nhà xuất bản Đại học Nhân dân Trung Quốc, 2012, tr.5. 8 Samuelson, William D.Nordhaus: Kinh tế học, Nxb. Phát triển, Trung Quốc, 1993, tái bản lần thứ 12, tr.913 (bản tiếng Trung Quốc). 14 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 20 (420) - T10/2020 NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT phân phối tài nguyên, giảm giá thành, nhân tạo và toàn bộ nền kinh tế mất đi hoạt khuyến khích sáng tạo, nhưng nếu quá đề lực cạnh tranh. Cạnh tranh hữu hiệu thực cao cạnh tranh sẽ dẫn đến cạnh tranh tự do chất là sự dung hòa tối ưu giữa kinh tế quy quá mức, không có lợi đối với việc nâng cao mô và hoạt lực cạnh tranh, từ đó có thể tối sức cạnh tranh của ngành và của doanh ưu hóa việc phân phối tài nguyên và nâng nghiệp, kết quả sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh cao hiệu suất kinh tế. tranh quốc gia. Hiện trạng kinh tế Hoa Kỳ Hiện nay, đa số các quốc gia có nền kinh những năm 70, 80 của thế kỷ XX là ví dụ rõ tế thị trường phát triển đều đi theo trường nét. Khi đó nước Mỹ chịu ảnh hưởng của tư phái Chigaco và đã thu được những kết quả tưởng tự do kinh tế và dân chủ kinh tế, cơ nhất định trong chính sách cạnh tranh. Với quan tư pháp Mỹ chủ trương “bảo vệ cạnh tư cách là nước đi sau, Việt Nam cũng nên tranh mà không bảo vệ chủ thể cạnh tranh” 9, tham khảo, học tập các mô hình kinh tế này, không ngần ngại hy sinh hiệu quả kinh tế để từ đó vận dụng sáng tạo vào điều kiện kinh có được cạnh tranh tự do. Thực tiễn tư pháp tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoa Kỳ thời kỳ này cho thấy, Tòa án đã 4. Quyền tự do cạnh tranh của doanh nhiều lần đưa ra phán quyết về việc phân nghiệp không đồng nhất với kết cấu thị tách một số công ty có sức mạnh thị trường, trường cạnh tranh tự do điển hình là Công ty Northern Securities, Những phân tích ở trên cho thấy , trường Công ty Standard Oil, Công ty Atlantic phái Harvard cổ vũ cho cạnh tranh tự do, Telephone and Telegraph Nhiều học gia không ủng hộ doanh nghiệp độc quyền; cho rằng, đây chính là nguyên nhân dẫn đến trong khi đó trường phái Chicago cổ vũ cho sự lép vế về quy mô và thành tích thị trường cạnh tranh hữu hiệu, không phủ nhận cạnh của các doanh nghiệp Hoa Kỳ so với các tranh tự do cũng không phủ nhận độc quyền; doanh nghiệp Nhật Bản và Tây Âu trong quá chỉ chống hành vi lũng đoạn mà không trình cạnh tranh quốc tế những năm 70, 80 chống bản thân doanh nghiệp có sức mạnh của thế kỷ trước. Nhận thức được vấn đề lũng đoạn. này, sau đó Chính phủ Mỹ đã điều chỉnh Khi thừa nhận doanh nghiệp có quyền chính sách cạnh tranh, không xem cạnh tự do cạnh tranh không có nghĩa là chúng ta tranh tự do là mục tiêu hàng đầu nữa mà thay thừa nhận theo đuổi hình thành kết cấu thị vào đó là chính sách cạnh tranh hữu hiệu trường cạnh tranh tự do, thay vào đó, tự do theo trường phái Chicago. cạnh tranh là để hình thành kết cấu thị Thứ hai , do cạnh tranh và độc quyền đều trường cạnh tranh hữu hiệu. Tuy nhiên, trong có hai mặt ưu điểm và nhược điểm nên việc thực tế, đã có có thời kỳ chúng ta lúng túng đồng thời phát huy vai trò tổng hợp của hai trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai yếu tố này là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, vấn khái niệm này, điều này có thể nhận thấy qua đề là giữa độc quyền và cạnh tranh luôn tồn vụ việc cạnh tranh của công ty xăng dầu tại “xung đột Marshall” (Marshall Dilema), hàng không Vinapco, xảy ra vào đầu năm tức là trong quá trình tìm kiếm kinh tế quy 2008 1. N guyên đơn trong vụ việc này là Cục mô, doanh nghiệp do tập trung sản xuất sẽ Quản lý cạnh tranh, bị đơn là Công ty xăng dẫn đến xuất hiện độc quyền, mà độc quyền dầu hàng không (Vinapco) trực thuộc Hãng là sự phủ định của cạnh tranh, cuối cùng làm hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam cho giá cả trên thị trường chịu sự khống chế Airlines). Vụ việc này liên quan đến việc 9 Xem phán quyết của vụ án Brown Shoe Co. v. United States, 370 US 294, (1962). NGHIÊN CỨU 15 Số 20 (420) - T10/2020 LẬP PHÁP NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Vinapco từ chối cung cấp nhiên liệu cho Nam có quyền nhập khẩu xăng dầu và cung hãng hàng không Pacific Airlines. Từ ngày ứng cho các hãng hàng không. Nói cách 20 /3/2008 đến ngày 31 /3/2008, Vinapco đã khác, Vinapco là doanh nghiệp có vị trí độc nhiều lần gửi thông báo cho Pacific Airlines quyền và có thể dựa vào rào cản pháp luật để về việc tăng phí nạp nhiên liệu máy bay lên duy trì vị trí hiện có. Điều cần chú ý là đầu 26,5% kể từ ngày 01 /4/2008. Nếu Pacific năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Airlines không đồng ý thì Vinapco sẽ ngừng chỉ thị về cấm tăng giá một số mặt hàng thiết cấp xăng dầu. Trong thực tế, Pacific Airlines yếu trong đó có xăng dầu. Rõ ràng là Vinapco đồng ý với đề xuất này với điều kiện cần phải tôn trọng quy định này. Ngoài ra, Vinapco cũng áp dụng mức tăng giá đó đối hành vi từ chối bán hàng của Vinapco đã tạo với Vietnam Airlines. Sau khi thương thảo, ra ảnh hưởng làm hoãn nhiều chuyến bay của hai bên vẫn không thể đi đến thống nhất. Pacific Airlines, từ đó đã gây tổn hại nghiêm Vinapco cho rằng, bất luận việc nạp nhiên trọng cho khách hàng. Hội đồng xử lý vụ việc liệu là bao nhiêu thì mỗi lần nạp nhiên liệu cạnh tranh nhất trí cho rằng , hành vi của đều cần hai nhân công và một xe bồn chở Vinapco đã vi phạm quy định tại khoản 2 và xăng lăn bánh từ kho chứa tới sân bay; thực khoản 3 Điều 14 Luật Cạnh tranh năm 2004, tế mỗi lần nạp nhiên liệu, Vietnam Airlines thuộc vào trường hợp hành vi “áp đặt điều đều nạp nhiều hơn 10 lần so với Pacific kiện bất lợi cho khách hàng” và “lợi dụng vị Airlines. Vì vậy, Vinapco sẽ không tăng giá trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc đối với khách hàng lớn là Vietnam Airlines. hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý Ngược lại, Pacific Airlines viện lý do quan do chính đáng”. Đồng ý với đề xuất tố tụng hệ giữa Vinapco và Vietnam Airlines, cho của Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý rằng với tư cách là công ty con của Vietnam vụ việc cạnh tranh đã xử phạt Vinapco số tiền Airlines, Vinapco đã thực hiện hành vi phân bằng 0,05% tổng doanh thu năm 2007, tương biệt đối xử về giá, từ đó làm cho Pacific đương gần 3,4 tỷ đồng. Ngoài ra, Hội đồng Airlines ở vào vị trí cạnh tranh bất lợi. Do xử lý vụ việc cạnh tranh còn đề xuất với Cục hai bên không thể đạt được nhất trí, ngày Hàng không thuộc Bộ Giao thông vận tải tách 01 /4/2008, Vinapco đã đơn phương chấm Vinapco ra khỏi Vietnam Airlines, để hình dứt cung ứng nhiên liệu cho Pacific Airlines, thành nên hai doanh nghiệp độc lập với nhau. làm cho hơn 30 chuyến bay và hơn 5000 Vinapco không đồng ý với Quyết định này và hành khách bị chậm chuyến vài giờ 1. Sau đó, gửi đơn khiếu nại lên Hội đồng cạnh tranh. Cục Hàng không đã lập tức ban hành Công Ngày 26 /6/2009, Hội đồng cạnh tranh đã văn số 985/CHK-TC, yêu cầu Vinapco tiếp ra Quyết định bác đơn khiếu nại của tục cung cấp nhiên liệu cho Pacific Airlines, Vinapco, giữ nguyên Quyết định của Hội đồng thời chỉ rõ trừ khi được sự đồng ý của đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nếu không Hội đồng cạnh tranh đã sửa kiến nghị trước thì Vinapco không được đơn phương đình đây của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, chỉ việc cung cấp xăng dầu hàng không. thay vì tách Vinapco ra khỏi Vietnam Tháng 5 năm 2008, Cục trưởng Cục Airlines thành cho phép các công ty khác Quản lý cạnh tranh đã ký Quyết định tiến tham gia thị trường xăng dầu hàng không, từ hành điều tra sơ bộ, hoạt động tố tụng hành đó loại bỏ vị trí độc quyền của Vinapco. chính chống lũng đoạn chính thức bắt đầu. Không lâu sau đó, vào ngày 01 /02 /2010, Bộ Ngày 14 / 4/2009, Hội đồng xử lý vụ việc Giao thông vận tải đã pho phép Công ty cổ cạnh tranh đã mở phiên điều trần. Hội đồng phần xăng dầu hàng không Petrolimex nhận định rằng, căn cứ vào quy định của (Petrolimex Aviation Fuel JSC) tham gia vào pháp luật, Vinapco là doanh nghiệp duy nhất thị trường này, từ đó hình thành nên kết cấu trên thị trường xăng dầu hàng không Việt thị trường xăng dầu cạnh tranh. 16 NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP Số 20 (420) - T10/2020 NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Một lần nữa Vinapco không đồng ý với tranh tự do; qua đó xử lý hài hòa được mối Quyết định của Hội đồng cạnh tranh và gửi quan hệ giữa thị trường cạnh tranh và kinh đơn kiện tới Tòa án nhân dân thành phố Hà tế quy mô, góp phần thúc đẩy chất lượng Nội. Sau khi xem xét vụ việc, Tòa án cho dịch vụ và giảm giá bán trên thị trường xăng rằng , do Vinapco không thể đưa ra chứng cứ dầu hàng không Việt Nam, đồng thời tạo chứng minh tính hợp lý của việc tăng giá, thuận lợi cho việc hình thành các doanh trong khi Quyết định của Hội đồng xử lý vụ nghiệp đủ lớn để có thể cạnh tranh trên thị việc cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh về trường quốc tế. tính chất hành vi và mức xử phạt đều có căn 5. Kết luận cứ pháp luật, phù hợp với quy định của Luật Những phân tích ở trên cho thấy, cần Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi phân biệt hai khái niệm quyền tự do cạnh hành. Ngày 12 /12 /2010, Tòa án nhân dân tranh và kết cấu thị trường cạnh tranh tự do. thành phố Hà Nội đã ra phán quyết bác đơn Mục đích của chính sách và pháp luật cạnh kiện của Vinapco. tranh là hướng đến bảo vệ hành vi tự do cạnh Như vậy, có thể thấy rằng , kiến nghị của tranh để thiết lập kết cấu thị trường cạnh Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Hội tranh hữu hiệu, mà không phải là kết cấu thị đồng cạnh tranh đều hướng đến hình thành trường cạnh tranh tự do, tức là phải xây dựng kết cấu thị trường cạnh tranh, tuy nhiên, kiến được kết cấu thị trường kết hợp hài hòa các nghị tách Vinapco ra khỏi Vietnam Airlines ưu điểm của cạnh tranh và độc quyền, vừa của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh rõ tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành ràng là làm mất đi doanh nghiệp có quy mô sản phẩm, đổi mới sáng tạo, vừa tận dụng lớn, hình thành kết cấu thị trường toàn doanh được các lợi thế của kinh tế quy mô; thực nghiệp nhỏ. Như vậy, kiến nghị này hướng hiện mục tiêu kép là bảo vệ người tiêu dùng đến hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh đồng thời bảo vệ doanh nghiệp, cho dù đó là tự do – là mô hình không còn phù hợp với doanh nghiệp lớn hay doanh nghiệp vừa và xu thế hiện nay. Cách làm này khá giống với nhỏ. Pháp luật cạnh tranh không chỉ là công xu thế phán quyết của Tòa án Mỹ những cụ để bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà năm 70, 80 của thế kỷ trước, và sự thất bại phải bảo vệ tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt trong cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ trước những doanh nghiệp do nỗ lực phấn đấu để Nhật Bản và Tây Âu đã buộc cơ quan tư đạt được quy mô lớn, ngay cả khi họ có được pháp và chính phủ Mỹ sau đó phải từ bỏ vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quan điểm này. Trong thực tế, Hội đồng cạnh quyền thì pháp luật vẫn phải bảo vệ. Đồng tranh đã thay đổi kiến nghị của Hội đồng xử thời, pháp luật cạnh tranh chỉ nên đóng vai lý vụ việc cạnh tranh, và sự thay đổi này hợp trò là công cụ kiểm soát và điều chỉnh hành lý hơn, bởi việc vẫn giữ lại Vinapco thuộc vi của doanh nghiệp, không nên điều chỉnh Vietnam Airlines nhưng kiến nghị thành lập trạng thái tồn tại của doanh nghiệp, như vậy một hoặc một vài công ty xăng dầu cung cấp mới có thể hình thành doanh nghiệp lớn, qua nhiên liệu hàng không mới sẽ tạo ra kết cấu đó tận dụng được ưu thế của kinh tế quy mô thị trường cạnh tranh hữu hiệu, thay vì duy và tạo ra sức cạnh tranh của quốc gia trên trì thị trường độc quyền hoặc thị trường cạnh trường quốc tế n 10 Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, detail&id=97, truy cập ngày 26/11/2020. 11 Bài báo 5000 hành khách bị “vạ lây” sự cố nhiên liệu, https://vnexpress.net/5-000-hanh-khach-va-lay-su- co-nhien-lieu-2691759.html, truy cập ngày 26/11/2020. NGHIÊN CỨU 17 Số 20 (420) - T10/2020 LẬP PHÁP
File đính kèm:
- quyen_tu_do_canh_tranh_cua_doanh_nghiep_va_ket_cau_thi_truon.pdf