Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ: Trường hợp nghiên cứu điển hình
Khiếm khuyết về giao tiếp là một trong những đặc trưng của trẻ rối
loạn phổ tự kỷ (tự kỷ). Chương trình can thiệp sớm tăng cường về hành vi
(EIBI) đã được chứng minh là rất hiệu quả trong phát triển kỹ năng giao tiếp
cho trẻ tự kỷ. Đề tài đã thiết kế hệ thống bài tập phát triển kỹ năng giao tiếp
theo EIBI và tiến hành thực nghiệm trên một trẻ tự kỷ ở thành phố Huế. Kết
quả cho thấy trẻ có sự tiến bộ rõ rệt về kỹ năng ngôn ngữ tiếp nhận, ngôn ngữ
biểu đạt và thể hiện sự lựa chọn sau thời gian can thiệp. Trẻ chiếm lĩnh được
kỹ năng hiểu tên gọi, kỹ năng tìm hiểu về hành động và kỹ năng lựa chọn ít
mang tính tương tác. Kỹ năng tìm hiểu về nơi chốn cũng đã gần đạt được mức
hoàn thiện. Kỹ năng tìm hiểu về cảm xúc cũng đã có nhiều tiến bộ, song vẫn
còn hạn chế. Trẻ chưa có kỹ năng đặt câu đơn giản và kỹ năng ghép 2-3 từ để
lựa chọn mang tính tương tác. Kết quả nghiên cứu chỉ ra tiềm năng của hệ
thống bài tập trong phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ: Trường hợp nghiên cứu điển hình
0 20 100 0 0 0 0 Đặt câu 2 Giai đoạn 1 (vật thật) 2 20 0 0 0 0 20 100 đơn giản Tìm Giai đoạn 3 (diễn tả hành động theo yêu cầu) 6 60 51 85 9 15 0 0 hiểu 3 về hành Giai đoạn 4 (gọi tên hành động đang thực hiện) 5 50 40 80 10 20 0 0 động Tìm Giai đoạn 1 (hiểu tên gọi cảm xúc) 4 40 39 97,5 1 0,5 0 0 hiểu Giai đoạn 2 (gọi tên cảm xúc trong thẻ tranh) 6 60 59 98,3 1 0,7 0 0 4 về Giai đoạn 3 (diễn tả cảm xúc theo yêu cầu) 5 50 0 0 0 0 50 100 cảm Giai đoạn 4 (gọi tên cảm xúc trên nét mặt xúc 4 40 0 0 0 0 40 100 người thật) Giai đoạn 1 (đưa thẻ tranh) 4 40 40 100 0 0 0 0 Giai đoạn 2 (gọi tên ở thẻ tranh) 4 40 38 95 2 5 0 0 Tìm hiểu Giai đoạn 3 (đến nơi theo yêu cầu) 8 80 74 92,5 6 7,5 0 0 5 về nơi Giai đoạn 4 (nói về nơi cần đến) 12 120 96 80 23 19,1 1 0,9 chốn Giai đoạn 5 (nói việc có thể làm ở từng nơi) 7 70 70 100 0 0 0 0 Giai đoạn 6 (nói đồ vật tìm thấy ở từng nơi) 2 20 0 0 10 50 10 50 Lưu ý: SL: số lượng; TL: tỷ lệ 70 NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH, NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG Quá trình can thiệp nhằm phát triển kỹ năng ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ biểu đạt cho trẻ được thể hiện ở bảng 1. - Mỗi bài tập được thử qua nhiều buổi. Mặc dù tổng tỷ lệ % lần phản ứng đúng của trẻ có thể < 80%, trẻ vẫn được đánh giá thành thục bài tập nếu làm đúng 8/10 lần thử trong một buổi học mà không cần gợi ý của người dạy. Nhìn vào bảng 1 có thể thấy kỹ năng ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ biểu đạt của trẻ có nhiều tiến bộ sau quá trình can thiệp. Trẻ hoàn toàn chiếm lĩnh kỹ năng hiểu tên gọi và kỹ năng tìm hiểu về hành động. Kỹ năng tìm hiểu về nơi chốn của trẻ cũng đã gần đạt được mức hoàn thiện (ở giai đoạn 5). Kỹ năng tìm hiểu về cảm xúc của trẻ cũng đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn rất hạn chế (chỉ ở giai đoạn 2). Trẻ vẫn chưa có kỹ năng đặt câu đơn giản sau nhiều lần thử. Biểu hiện cụ thể của trẻ như sau: Đối với kỹ năng hiểu tên gọi sau khi đánh giá ban đầu, giáo viên bắt đầu dạy trẻ ở giai đoạn 3.1 (trẻ đưa được hai đồ vật/tranh theo đúng trình tự yêu cầu). Ban đầu, giáo viên sử dụng 3 vật thật và yêu cầu trẻ lấy 2 trong 3 đồ vật đặt trên bàn đưa cho người dạy. Sau những lần thử đầu tiên, trẻ thường đáp ứng ngược thứ tự yêu cầu nên người dạy đã tìm cách gợi ý cho trẻ. Sau khi nêu yêu cầu, người dạy chờ đáp ứng từ trẻ. Nếu thấy trẻ lấy đồ vật thứ hai trước thì người dạy sẽ cầm tay trẻ đặt vào đồ vật thứ nhất sau đó đến đồ vật thứ hai. Sau những lần gợi ý, trẻ đã có thể lấy 2 đồ vật theo đúng trình tự yêu cầu. Trẻ tiếp thu khá nhanh và có thể thực hiện đúng 70% yêu cầu sau 10 lần thử. Do vậy, giáo viên tiếp tục chuyển sang dạy giai đoạn 3.2 và 3.3 (lấy hai trong số 4 và 6 đồ vật) thì thấy trẻ phản ứng đúng với tất cả các lần thử. Giáo viên đã tăng mức độ khó lên bằng cách sử dụng tranh và yêu cầu trẻ lấy 2 trong số 3, 4 và 6 tranh (giai đoạn 3.4, 3.5 và 3.6) thì thấy trẻ tiếp tục phản ứng đúng với tất cả các lần thử. Trong quá trình thực nghiệm, mặc dù không đặt mục tiêu dạy về lĩnh vực biểu đạt tên gọi, song giáo viên đã yêu cầu trẻ gọi tên đồ vật/tranh mình đang cầm trong tay để đồng thời giúp phát triển kỹ năng này cho trẻ. Trẻ đáp ứng tốt điều này với tất cả các lần thử. Việc dạy kết hợp giữa kỹ năng ngôn ngữ tiếp nhận và biểu đạt là một điều nên làm, bởi chúng có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ [4]. Ở kỹ năng đặt câu đơn giản, trẻ hoàn toàn chưa chiếm lĩnh được (100% lần trẻ không phản ứng với yêu cầu). Người dạy đã gợi ý bằng rất nhiều cách và sử dụng nhiều phần thưởng trẻ thích để củng cố nhưng đều không thành công. Có thể lý giải rằng, mức độ phát triển về ngôn ngữ của trẻ đang ở giai đoạn từ đơn, bởi vậy để dạy trẻ đặt câu cần có nhiều thời gian can thiệp. Đối với kỹ năng tìm hiểu về hành động, trước khi bắt đầu chương trình thực nghiệm trẻ đã thành thạo việc hiểu và gọi tên các hành động trong thẻ tranh, vì vậy, giáo viên bắt đầu dạy kỹ năng này ở giai đoạn 3 (diễn tả hành động theo yêu cầu). Sau những lần thử đầu tiên, trẻ đáp ứng tốt nhưng để chắc chắn giáo viên đã tiến hành thử tiếp ở những buổi dạy tiếp theo, không chỉ ở trong phòng thực nghiệm mà còn ở các địa điểm khác. Sau 6 buổi học, trẻ đã thành thạo kỹ năng này (85% lần phản ứng đúng). Trẻ được chuyển lên học giai đoạn khó hơn (giai đoạn 4: gọi tên hành động đang thực hiện). Ở những lần thử đầu tiên, trẻ không đáp ứng với bài tập này nên người dạy đã sử dụng các gợi ý như nhắc, chờ đợi và mớm lời cùng với việc sử dụng các phần thưởng. Sau 5 buổi học, trẻ đã thành PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ 71 thạo và vượt qua được giai đoạn này (80% lần phản ứng đúng). Kỹ năng tìm hiểu về cảm xúc được bắt đầu dạy cho trẻ từ giai đoạn 1 (hiểu tên gọi của các cảm xúc) và dần tiến lên giai đoạn 2 (gọi tên các cảm xúc trong thẻ tranh). Trẻ có đáp ứng tốt với việc học kỹ năng này, mức độ gợi ý của giáo viên cũng rất ít. Trẻ thành thục hai giai đoạn đầu của kỹ năng này sau 6 buổi học với trên 97% lần phản ứng đúng. Tuy nhiên, khi tăng dần mức độ khó, yêu cầu trẻ diễn tả cảm xúc theo yêu cầu (giai đoạn 3) thì sau 50 lần thử ở nhiều buổi học khác nhau, trẻ đều không có phản ứng với bài tập này (100% lần không phản ứng sau 5 buổi học). Người dạy đã tìm cách gợi ý làm mẫu, sử dụng gương hay các phần thưởng trẻ thích song kết quả vẫn không đổi. Mặc dù vậy, giáo viên quyết định chuyển sang dạy trẻ cách gọi tên cảm xúc trên nét mặt của người thật (giai đoạn 4) để xem phản ứng của trẻ và cũng để kiểm chứng mức độ phù hợp của hệ thống bài tập trong dạy trẻ tự kỷ. Kết quả vẫn tương tự, trẻ không có đáp ứng với bài tập này (100% lần không phản ứng sau 4 buổi học). Với các trẻ tự kỷ, việc diễn tả và đọc được cảm xúc của người khác là điều vô cùng khó khăn [5]. Các nghiên cứu não bộ chỉ ra rằng phần não bộ có chức năng nhận diện khuôn mặt và biểu cảm của người tự kỷ có hình thái hoạt động khác so với người bình thường, do đó các phần não khác tham gia vào quá trình hoạt động xã hội cũng bị ảnh hưởng [2]. Trẻ được học kỹ năng tìm hiểu về nơi chốn bắt đầu từ giai đoạn đầu tiên, đơn giản nhất (giai đoạn 1: đưa đúng thẻ tranh theo yêu cầu). Trẻ phản ứng đúng ở tất cả các lần thử. Sau 4 buổi học, giáo viên dạy trẻ ở gọi tên các địa điểm trong thẻ tranh (giai đoạn 2). Ở hai lần thử đầu tiên, trẻ còn cần người dạy gợi ý bằng cách nhắc từ nhưng ở các lần thử sau trẻ đã tự hoàn thành bài tập (95% lần phản ứng đúng sau 4 buổi học). Giai đoạn 3 (tiến đến đúng nơi theo yêu cầu) được dạy trong 8 buổi và cần đến sự gợi ý của giáo viên thì trẻ mới dần chiếm lĩnh được kỹ năng này. Cụ thể, ban đầu, sau khi đưa yêu cầu, chờ khoảng 5 giây, nếu không thấy trẻ phản ứng, giáo viên cầm tay trẻ dắt đến nơi theo yêu cầu; về sau, giáo viên sử dụng đồ chơi và yêu cầu trẻ cầm đồ chơi đó đem đến các địa điểm theo yêu cầu thì trẻ phản ứng đúng 80% lần thử. Giáo viên quyết định chuyển trẻ lên học ở giai đoạn 5 (gọi tên việc có thể làm được ở từng địa điểm). Trẻ có đáp ứng tốt từ những lần thử đầu tiên. Giáo viên tiếp tục dạy kỹ năng này không chỉ ở phòng can thiệp mà còn ở gia đình trẻ. Khi chuyển sang giai đoạn 6 (gọi tên các đồ vật có thể tìm thấy ở từng địa điểm), trẻ chưa chiếm lĩnh được kỹ năng này. 50% lần trẻ cần giáo viên gợi ý (mớm lời, nhắc nhở) và 50% lần trẻ không phản ứng với yêu cầu. 3.2. Kỹ năng thể hiện sự lựa chọn Kỹ năng thể hiện sự lựa chọn cũng được đưa vào chương trình can thiệp giao tiếp cho trẻ bởi đây là một trong những kỹ năng cực kỳ cần thiết giúp trẻ biết thể hiện nhu cầu của mình. Kết quả thực nghiệm cho thấy trẻ đã có thể đạt đến giai đoạn hoàn thiện của kỹ năng lựa chọn ít mang tính tương tác (xem bảng 2). Trẻ vẫn chưa chiếm lĩnh được kỹ năng ghép 2-3 từ để thể hiện sự lựa chọn mang tính tương tác. Kết quả cụ thể được trình bày ở bảng 2. 72 NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH, NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG Bảng 2. Tổng hợp quá trình can thiệp kỹ năng thể hiện sự lựa chọn Phản ứng Đúng cần Không Số Số Đúng STT Kỹ năng Bài tập buổi lần gợi ý phản ứng học thử SL TL SL TL SL TL (lần) (%) (lần) (%) (lần) (%) Giai đoạn 2 (gọi tên đồ vật/thức ăn mình 5 50 50 100 0 0 0 0 Lựa chọn muốn khi đặt trước ít mang 1 mặt) tính tương Giai đoạn 3 (gọi tên tác đồ vật/thức ăn mình 2 20 20 100 0 0 0 0 muốn khi cần) Lựa chọn Giai đoạn 4 (ghép 2-3 2 mang tính 6 60 0 0 0 0 60 100 từ) tương tác Lưu ý: SL: số lượng; TL: tỷ lệ Trước khi bắt đầu chuỗi các bài tập này, giáo viên đã tìm hiểu sở thích của trẻ và biết được thức ăn, đồ vật nào trẻ thích để sử dụng trong bài tập này. Khi bắt đầu dạy kỹ năng lựa chọn ít mang tính tương tác ở giai đoạn 2, trẻ đã biết yêu cầu thức ăn/đồ vật mình muốn khi để trước mặt trẻ ở những lần thử đầu tiên. Trẻ đã thành thạo kỹ năng này và được kiểm tra lại thường xuyên qua 5 buổi học ở những hoàn cảnh khác nhau (100% lần phản ứng đúng). Khi trẻ thành thạo ở giai đoạn gọi tên thức ăn, đồ vật mình muốn khi đặt ở trước mặt, giáo viên chuyển lên giai đoạn khó hơn là yêu cầu trẻ gọi tên thức ăn, đồ vật mình muốn khi có nhu cầu (giai đoạn 3). Khi bắt đầu bài tập này, người dạy đoán ý trẻ và hỏi vào những lúc trẻ đang thật sự cần thức ăn hoặc đồ vật đó nên đã có đáp ứng tốt từ trẻ ở những lần thử đầu tiên. Bài tập này được dạy qua 2 buổi học và trẻ đều có phản ứng đúng với tất cả các lần thử. Ở kỹ năng lựa chọn mang tính tương tác, giáo viên bắt đầu dạy trẻ bằng việc yêu cầu trẻ ghép 2 – 3 từ với nhau để thể hiện yêu cầu (giai đoạn 4). Tuy nhiên, trẻ không phản ứng ở tất cả các lần thử. Mặc dù người dạy đã cố gắng sử dụng các hoạt động trẻ thích, trẻ chỉ đáp ứng lại với các từ khóa (như vẽ, màu, bánh, uống) chứ chưa ghép được 2 – 3 từ. Mức độ ngôn ngữ hiện tại của trẻ đang ở giai đoạn từ đơn nên cần luyện tập thời gian dài hơn để trẻ có thể chiếm lĩnh giai đoạn này. 4. KẾT LUẬN Hệ thống bài tập phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ được xây dựng dựa trên các chương trình can thiệp sớm theo EIBI đã có hiệu quả trong can thiệp cho một trẻ tự kỷ ở thành phố Huế. Sự tiến bộ của trẻ thể hiện rõ rệt sau hai tháng thực nghiệm theo hình thức can thiệp cá nhân kết hợp với hỗ trợ của gia đình. Đa số các kỹ năng thuộc nhóm ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ biểu đạt của trẻ đều đã đạt được giai đoạn cao hơn so với trước khi can thiệp. Trẻ đã hoàn toàn chiếm lĩnh được kỹ năng hiểu tên gọi và kỹ năng tìm hiểu về hành động. Kỹ năng tìm hiểu về nơi chốn của trẻ cũng đã gần đạt được mức hoàn thiện. PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ 73 Kỹ năng tìm hiểu về cảm xúc của trẻ cũng đã có nhiều tiến bộ, song vẫn còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, kỹ năng thể hiện sự lựa chọn ít mang tính tương tác của trẻ cũng đã đạt đến mức độ hoàn thiện sau thời gian can thiệp. Tuy nhiên, trẻ vẫn chưa có kỹ năng đặt câu đơn giản và kỹ năng ghép 2-3 từ để thể hiện sự lựa chọn mang tính tương tác. Như vậy, hệ thống bài tập được xây đựng đã chứng tỏ tiềm năng của mình trong việc phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ. Trong quá trình can thiệp, việc phối hợp giữa cha mẹ và giáo viên để can thiệp tại nhà cho trẻ là rất quan trọng, góp phần giúp trẻ có thể chiếm lĩnh được kỹ năng nhanh hơn và khái quát được kỹ năng được học qua các môi trường khác nhau. Phụ huynh cần được tập huấn về chương trình can thiệp để có kỹ năng can thiệp cho trẻ. Việc sử dụng gợi ý ở mức độ giảm dần, sử dụng hệ thống phần thưởng khích lệ hợp lý cũng là điều cần hết sức cân nhắc trong quá trình dạy trẻ. Bên cạnh đó, việc đánh giá khả năng ban đầu của trẻ và đánh giá, kiểm tra thường xuyên những kỹ năng đã học (dù trẻ đã chiếm lĩnh) cũng là điều rất cần thiết. Đặc biệt, để đảm bảo kết quả đạt kết quả tốt, thời gian can thiệp cần liên tục, nhất quán và phù hợp với tình hình trẻ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] American Psychiatric Association (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorder (5th ed.), Washington, DC: American Psychiatric Association. [2] Autism Spectrum Australia (2017). Hướng dẫn phát triển kỹ năng xã hội và cảm xúc (nhóm RUBIC dịch), NXB Thế giới [3] Creswell, J. W., (2012). Educational research: planning, conducting, and evaluating quantitative and qualitative research (4ed), Pearson Education, Upper Boston, MA. [4] Hattier, M. A. & Matson, J. L. (2012). An examination of the relationship between communication and socialization deficits in children with autism and PDD- NOS, Research in Autism Spectrum Disorders, 6, 871–880. [5] Janzen, J. E. (2003). Understanding the nature of autism: a guide to the autism spectrum disorder, Texas: PsychCorp, Harcourt. [6] Pierangelo, R. (2012). Assessment in special education – a practical approach, Upper Saddle River, New Jersey: Pearson. [7] Reed, P. & Osborne, L. (2012). Impact of severity of autism and intervention time- input on child outcomes: comparison across several early interventions, British Journal of Special Education, 39, (3), 130-136. [8] Rogers, S. J. & Vismara, L. A. (2008). Evidence-based comprehensive treatments for early autism, Journal of Clinical Child and Adolescent Psychology, 37(1), 8-38. [9] Sallows, G. O. & Graupner, T. D. (2005). Intensive behavioral treatment for children with autism: Four-year outcome and predictors, American Journal of Mental Retardation, 110(6), 417-438. [10] Young, R. L., Partington, C., & Goren, T. (2010). SPECTRA: Structured Program for Early Childhood Therapists Working with Autism, Camberwell, VIC: ACER Press. 74 NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH, NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG Title: DEVELOPING COMMUNICATION SKILLS FOR CHILDREN WITH AUTISM SPECTRUM DISORDER: A CASE STUDY Abstract: Communication deficits are one of the core characteristics of children with Autism Spectrum Disorder (ASD), limiting their ability to integrate into the community. Early Intensive Behavioral Intervention (EIBI) has proven to be very effective for developing communication skills for children with ASD. This study designed a communication exercise system for children with ASD based on EIBI and used them for intervening a child with ASD in Hue city. Results of the study show that the child made marked improvements in his receptive language, expressive language and making choice skills after the experiment. The child mastered the receptive label, understanding action and less-spontaneous requesting skills and nearly mastered the completed stage of the understanding place skill. The child’s understanding emotion skill did improve but was still very limited. The child did not improve skill in making simple sentence or using 2-3 words to make spontaneous requesting. Research results indicate the potential of the exercise system in developing communication skills for childrewn with ASD. Keywords: Autism Spectrum Disorder, communication skills, Early Intensive Behavioral Intervention
File đính kèm:
- phat_trien_ky_nang_giao_tiep_cho_tre_roi_loan_pho_tu_ky_truo.pdf