Những đợt chấn hưng nghề chế tác đá An Hoạch (Thanh Hóa)
Tóm tắt: Làng An Hoạch ven thành phố Thanh Hóa là một trong những làng cổ
xưa nhất của vùng đồng bằng sông Mã và nghề chế tác đá nơi đây là một trong những
nghề thủ công có lịch sử lâu đời nhất Việt Nam. Sự xuất hiện của nghề chế tác đá An
Hoạch có mối liên hệ mật thiết với truyền thống chế tác đá của cư dân đồng bằng sông
Mã từ thời kỳ nguyên thủy, đến thế kỷ X, bắt đầu định hình rõ nét và phát triển liên tục,
không đứt quãng cho đến ngày nay. Mỗi bước phát triển của nghề này đều gắn liền với
những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Không những thế, nó còn có sức lan tỏa,
tác động đến sự hình thành và phát triển của nhiều làng nghề chế tác đá nổi tiếng ở
những vùng miền khác như Ngũ Hành Sơn (Đà Nang), Ninh Vân (Ninh Bình). Nghiên
cứu sự hình thành và phát triển của nghề chế tác đá An Hoạch là nghiên cứu trường
hợp về một nghề thủ công truyền thống tiêu biểu không chỉ của xứ Thanh mà của cả
nước, giúp ta nhận diện sâu sắc quá trình hình thành, phát triển và kết cấu kinh tế, xã
hội, văn hóa của một làng nghề đặc trưng.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Những đợt chấn hưng nghề chế tác đá An Hoạch (Thanh Hóa)
ột tổ chức nghề nghiệp tương đối chặt chẽ. Trong Đại Nam nhất thống chí có nhắc đến dòng họ làm đá ở An Hoạch “ấp đó (An Hoạch) còn có dòng họ Bạt Thạch (làm nghề chạm đá)”9. Đồng Khánh địa dư chí trong mục Phong tục của huyện Đông Sơn chỉ nhắc tới 2 nghề thủ công “Làm thợ thì An Hoạch chuyên nghề đẽo đá, Trà Đông chuyên nghề đúc đồng”. Trong mục Sản vật ghi “Riêng tổng An Hoạch có đá Thanh”10. Do nhu cầu xây dựng thành Phú Xuân (Huế), thợ đá núi Nhồi đã được triệu về kinh xây cung đình, lăng tẩm. Ngày 20 tháng 01 năm Gia Long thứ 4 (1805), đã truyền: “Quan trấn Nội trấn Thanh Hóa được rõ: nay phải sức gấp thợ đá, làm các loại đá xây điện Thái Hòa để trở về Kinh”11. Khi khởi công xây dựng các điện Thái Hòa, cửa Đại Môn và Ngọ Môn, các thợ thuyền, phu dịch đến làm việc rất nhiều, trong đó “duy có thợ đá là khó nhọc hơn, từng đã ban thưởng. Đến nay lại cho chiếu xét bọn biền binh là thợ đá và giúp việc làm đá ở Quảng Nam, Thanh Hóa hiện đương làm những việc ấy đều thưởng cho lương, tiền nửa tháng”12. 66 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU Theo Đại Nam thực lục, tháng 7 năm 1831 vua Minh Mạng đã sai bộ Công nghĩ vẽ mẫu tượng đá quan văn, quan võ, lính thị vệ, voi đá, ngựa đá để thợ Quảng Nam, Thanh Hóa chế tạo. Tượng quan văn, quan võ mỗi thứ một đôi, sáu tượng lính thị vệ, đều cao 3 thước 6 tấc, voi đá hai con, mỗi con cao 4 thước 1 tấc; ngựa đá hai con, mỗi con cao 2 thước 7 tấc. Khi chế tạo xong đệ về kinh, vua sai đem bày ở lăng Thiên Thụ (tức lăng Gia Long)13. Việc vận chuyển đá vào kinh đô Huế để xây dựng các cung điện, lăng tẩm chủ yếu bằng đường biển. Ngày 15 tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 1, “Đốc trấn Thanh Hóa tâu: nay đã chọn được 1926 phiến đá móng giao cho viên Phó quản cơ Trung tiệp Thủy quân Nghị Luận hầu nhận chở về kinh”14. Ngày 22 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 3, có 13 chiếc thuyền chở sản vật và các hạng đá của Thanh Hóa về kinh phụng nạp15. Ngày 24 tháng 6 năm Minh Mệnh 6, 378 lính thủy và bộ cùng 10 chiếc thuyền do triều đình phái đã đến Thanh Hóa để chuyển các thứ đá về kinh phụng nạp16. Ngày 22 tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 3, lại có 13 chiếc thuyền chở sản vật và các hạng đá của Thanh Hóa về kinh phụng nạp17. Ngày 24 tháng 6 năm Minh Mệnh 6, 378 lính thủy và bộ cùng 10 chiếc thuyền do triều đình phái đã đến Thanh Hóa để chuyển các thứ đá về kinh phụng nạp18. Ngày 15 tháng 8 năm Minh Mệnh 6 có “đoàn thuyền 26 chiếc ở Thanh Hóa chở đá về kinh”19. Theo lời tâu của Dinh Quảng Bình ngày 17 tháng 3 năm Minh Mệnh 7 “có đoàn thuyền 10 chiếc lĩnh chở tiền, đồ vật công và đá tại trấn Thanh Hoa đã đi qua vùng cửa biển Nhật Lệ”20. Ngày 15 tháng 8 năm Minh Mệnh 7, trấn Thanh Hóa báo cáo triều đình “đã mua được đá cây 2687 tấm, đá lát 1076 tấm, tổng chiều dài 1487 thước 7 tấc; đá khối 1267 khối, tổng chiều dài 1424 thước và 6 tấc và 1 tấm đá bia... phân ra trên đoàn thuyền 11 chiếc chuyên đi biển...”21. Nghề này phát triển đến nỗi khác với các nghề thủ công khác trong tỉnh và các hộ bẩy đá trong toàn quốc, nhà Nguyễn đã cấp phát tiền lương cho các đội đẽo đá. Ngày 17 tháng 6 năm Gia Long thứ 4 (1805) truyền “cấp phát lương cho số quân dân đội Bạt Thạch đẽo đá, cấp phát cho mỗi người mỗi tháng 1 phương rưỡi gạo và 1 quan 5 mạch tiền”22. Đồng thời, nhà Nguyễn cũng quy định riêng một mức thuế mà người thợ ở đây phải đóng góp. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều đình quy định nghề đá ở thôn Nhuệ phải nộp thuế đá phục vụ các công trình xây dựng đền miếu, lăng tẩm đương thời: “Mỗi người thợ đá nộp 8 phiến, mỗi phiến dài 8 thước, bề mặt 8 tấc, dày 8 tấc, dân đinh già cả, tàn tật chịu một nửa”. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838) chuẩn y lời bàn cho thôn Nhuệ xã An Hoạch huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa “chiếu lệ ra lính tuyển còn lại ở sổ bao nhiêu cho làm đá, mỗi người cả năm nộp đá xây 8 phiến, mỗi phiến dài 8 thước, 67 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU bề mặt 8 tấc, dày 2 tấc, dân đinh già cả, tàn tật chịu một nửa”. Đến năm Tự Đức thứ nhất (1848), có quy định: “Hạng tráng đinh (20 tuổi trở lên) nộp đá xây 10 phiến dài 1 thước, bề mặt 5 tấc, dày 2 tấc, dân đinh già cả, tàn tật nộp một nửa”23. Không phải chỉ nộp thuế khai thác đá, thợ đá An Hoạch còn phải trưng tập vào Huế mỗi năm 3 người làm việc ở Ty Vũ khố. Nghề đục đá của thôn Nhuệ không chỉ nổi tiến ở tỉnh lỵ Thanh Hóa mà còn nổi tiếng trong cả nước. Việc xây dựng nhà thờ Phát Diệm cuối thế kỷ XIX liên quan đến nguồn nhân lực và các di vật chạm khắc đá ở Thanh Hóa: Cha Sáu vốn gốc người Nga Sơn Thanh Hóa đã đưa thợ đá vùng núi Nhồi tham gia xây dựng và đưa chiếc sập đá to lớn về đặt ở tòa Phương Đình, đây là chiếc sập đá của vua Hồ ở thành Tây Giai được đưa về đầu thế kỷ XIX24. Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy ở chân núi Nhồi dấu vết của nhiều công trường chế tác đá với nhiều di vật chìm sâu dưới đất tại các điểm trong bán kính 200 m quanh khu di tích lăng Mãn Quận công, di tích chùa Hang, đình Thượng... đó là các mảnh bia đang đục dở dang, nhiều đầu tượng Phật, tượng lính chầu, tượng voi, ngựa, bia ký... Đây là chứng tích của một thời kỳ phát triển hoàng kim của nghề chế tác đá nơi đây. 2.5. Thăng trầm nghề chế tác đá An Hoạch từ thế kỷ X X đến nay Đầu thế kỷ XX, công nghệ vật liệu xây dựng mới phát triển, nghề mỹ nghệ cũng ít quan tâm đến việc chế tác linh thú bằng đá Nhồi. Người ta tìm đến đá hoa cương ngũ sắc, đá mầu, đá mỹ nghệ mềm, dẻo hơn, hay phát triển mỹ nghệ vàng bạc, gốm... Song, nghề chế tác đá An Hoạch vẫn tồn tại và phát triển. Theo Robequain, cuối thời Nguyễn ở thôn Nhuệ “Mặc dù đại bộ phận dân làng đều có ruộng nhưng tất cả các gia đình, khoảng 300 đều làm đá”... Ông cũng khẳng định “tiếng tăm của thợ đá Nhuệ thôn khá lớn... Từ lâu, thợ đá Nhuệ thôn là những người cung cấp đá cho triều đình Huế và kênh đào từ Ninh Bình đi Vinh có lẽ đã được đào theo đường cái quan để tiện việc chuyên chở các sản phẩm của họ. Dáng vẻ đổ nát, đá đất chồng chất là bằng chứng của một sự khai thác lâu dài”. Robequain cũng cho biết “đồ đá Nhuệ thôn cũng bán một số lượng nhỏ ra Bắc Kỳ và vào Trung Kỳ. Ngoài ra, hàng trăm thợ đá làng này đi làm thuê khắp các vùng trong tỉnh, đôi khi ra cả ngoài Bắc. Một số người đã chuyển đến ở Phủ Quảng, Nam Định và Nghệ A n”, ông ghi chú: “Tháng 11/1925, tôi đã thấy họ [thợ đá thôn Nhuệ] đẽo đá lát trong một núi đá gần Châu Thôn (huyện Yên Định)... một số ra tận Lào Cai. Ở miền Nam Bắc Kỳ (tỉnh Ninh Bình) cũng có một làng chuyên đẽo đá nhưng không nổi tiếng bằng Nhuệ thôn”25. Năm 1922, tại hội chợ Marseille (Pháp), người thợ đá An Hoạch Lê Thọ Thuẫn đã tạc mô hình cầu Hàm Rồng bằng đá đưa đi triển lãm. Vua Khải Định tham gia hội 68 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU chợ này, được chứng kiến công trình nêu trên. Khi về nước đã mời cụ Thuẫn vào cung và dùng đá núi Nhồi tạc nhiều công trình: Bức rèm hoa, tượng đá, các con giống đá, cột xà, đá tảng và đầu rồng trang trí cho phủ đệ của mình. Cụ Thuẫn được triều đình cho vào hàng quan Cửu phẩm, làng gọi là Cửu Thuẫn. Theo lời kể của các nghệ nhân ở làng Nhồi hiện nay, dòng họ của cụ Lê Thọ Thuẫn là dòng họ kỳ cựu trong công việc chế tác đá. Hậu duệ là cụ Lê Văn Ngũ được cử làm Phó chủ nhiệm Hợp tác xã chuyên phụ trách nghề đục đá trong thời kỳ xây dựng hợp tác xã bậc thấp. Cụ Ngũ đã tham gia làm chùa Bút Tháp, Lăng và bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lam Kinh, Tân Trào, Trúc lâm Thiền viện ở Pháp, mộ Phan Đình Phùng (Hà Tĩnh). Người trong dòng họ hiện nay còn kể về việc cụ Ngũ thực hiện công việc bóc tách tấm bia tạc bài thơ của Lê Lợi trên vách đá núi ở huyện Đà Bắc, sông Đà tránh bị nhấn chìm dưới lòng hồ sông Đà thủy điện Hòa Bình. Vách đá khắc bài thơ cheo leo, dựng đứng, cao 5 m, rộng 2,7 m, xung quanh toàn đá tai mèo, dưới là sông Đà chảy xiết. Sau một tháng thi công với búa, đục, cộ và hai thanh niên làng thay nhau khoét âm vào núi thì công việc hoàn thành, tấm đá khắc bài thơ được chở về bảo tàng. Việc hoàn thành nhiệm vụ khó khăn này chứng tỏ sự khéo léo của đôi tay và khối óc người thợ. Ngày nay, nghề chế tác đá An Hoạch vẫn còn duy trì nhưng đứng trước nhiều thách thức. Sự khai thác đá bừa bãi trong một thời gian dài, đặc biệt việc sử dụng chất nổ trong thế kỷ XX đã làm cạn kiệt nguồn nguyên liệu quý hiếm. Mặt khác, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kiểu tổ chức cũ, tận dụng sự khéo léo của đôi bàn tay lao động nhàn rỗi tỏ ra kém cạnh tranh so với các dây chuyền sản xuất hiện đại. Nhiều sản phẩm đá chủ yếu phục vụ hoạt động nông nghiệp: cối đá, trục lăn, cối xay... không còn nhu cầu trong thời đại hiện nay. Những kỹ thuật tiên tiến: cưa máy, khoan máy, xẻ đá bằng máy, kỹ thuật mãi nhẵn, đánh bóng... là thách thức với cách làm thủ công. Thêm vào đó là tác động của hàng loạt các vấn đề thuộc về quy luật phát triển của khoa học, quy luật thị trường, thị hiếu, thẩm mỹ của người tiêu dùng... khiến nghề chế tác đá An Hoạch dường như bị suy yếu. 3. Thay lời kết Là nơi có nguồn đá quý với trữ lượng dồi dào, lại được điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội thôi thúc nên ở chân núi Nhồi sớm hình thành những công xưởng chế tác đá từ thời nguyên thủy. Do những điều kiện kinh tế - xã hội đặc trưng, nghề chế tác đá An Hoạch được chấn hưng ở thời Lý - Trần, Lê sơ, Lê - Trịnh và Nguyễn. Người thợ đá An Hoạch không chỉ bó hẹp phạm vi hoạt động trong vùng, trong tỉnh mình mà đã đi khắp 69 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU nơi để hành nghề. Và chắc chắn, những sản phẩm họ làm nên đã đóng góp không nhỏ vào dòng chảy lịch sử - văn hóa Việt Nam. Nhưng một câu hỏi đặt ra là tại sao nghề đá nơi đây vốn có một thời kỳ huy hoàng kéo dài suốt thời trung đại, đến nay lại tàn lụi trong khi ở những làng đá xuất hiện sau như Ngũ Hành Sơn, Ninh Vân đang rất phát triển? Việc nghiên cứu tiếp tục bảo tồn làng nghề điêu khắc đá truyền thống độc đáo này có thể tiếp tục phát triển trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày nay là một là một thách thức to lớn cần các cấp các ngành và giới khoa học cùng xem xét. Chú thích: 1 Theo Charle Robequain trong Le Thanh Hoa. 2 Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 252. 3 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 242. 4 Viện Văn học (1997), Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 309. 5 Một số bia ghi danh thợ đá họ Lỗi: Trùng tu Báo Ân tự bi ký niên đại 1585 tại chùa Báo Ân, xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17545); Hậu Phật bi kí niên đại 1706 tại chùa Phúc Lâm, xã Gia Thụy, huyện Gia Lâm, Hà Nội (N0 4228); Văn chỉ tự điền bi niên đại 1859 tại Văn chỉ xã Phù Lưu, tổng Quảng Chiếu (nay là xã Đông Tân), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17689/17690); Hậu báo bi kí niên đại 1692 tại đình Đằng Man, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên (N0 3755/3756); Thiều Sơn Văn chỉ bi ký niên đại 1878 tại thôn Thiều Sơn, xã Trường Mãn (nay là xã Đông Văn), huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17805/17806); Văn chỉ bi niên đại 1894 tại thôn Đống, xã Đông Hưng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (N0 17541). 6 Lê Tắc (1961), An Nam chí lược, Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, tr.11. 7 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 181. 8 Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, dịch theo bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 381. 9 Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 53. 10 Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Huyên, Philippe Papin (2003), Đồng Khánh địa dư chí, tập 2, Nxb Thế giới, tr. 1106. 11 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 1, Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh I (1820) - Minh Mệnh V (1824), tr. 13. 12 Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 260. 13 Quốc sử quán triều Nguyễn (1970), Đại Nam thực lục, tập XXIV, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 295 - 296. 14 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 1, Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh I (1820) - Minh Mệnh V (1824), tr. 446. 15 Viện Đại học Huế - Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam (1962), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập thứ 2, triều Minh Mạng, tr. 43. 70 TRAO ĐỔI - NGHIÊN CỨU 16 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), tr. 167 - 168. 17 Sđd, tr.43. 18 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), tr. 167 - 168. 19 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), tr. 200. 20 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), tr.409. 21 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Đại học Huế - Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và giao lưu văn hóa (1998), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 2, Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), tr. 646. 22 Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước (2010), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập 1, Gia Long (1802 - 1819), Minh Mệnh I (1820) - Minh Mệnh V (1824), tr. 159. 23 Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 4, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 396 -397. 24 Tòa Giám mục Phát Diệm (1998), Lịch sử nhà thờ đá Phát Diệm, Tòa Giám mục Phát Diệm - Ninh Bình, tr. 23. 25 Charles Robequain (2012), Tỉnh Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, tr. 471. REFORMS OF AN HOACH STONE VILLAGE IN THANH HOA PROVINCE Le Thi Thao, Ph.D student Tran Thi Thanh Huyen, M.A Abstract: Staying in the suburb o f Thanh Hoa City is An Hoach stone village. It is not only one o f the oldest villages in the Delta of Ma river but also a craft village that has long history in Vietnam.The presence o f An Hoach stone village was linked closely with traditional stone making o f residents in the Delta o f Ma river since from primeval time. The craft was clearly shaped in the 10th century and has continuously developed to the present day. Each step o f development process o f the craft is linked with the ups and downs of Vietnam history. Moreover, it has affected the formation and growth o f many stone villages in other regions such as Ngu Hanh Son village (Danang), Ninh Van village (Ninh Binh). The formation and development o f An Hoach stone village is presented in a case study on a famous traditional craft not only in Thanh land but also in Vietnam. The study also help us deeply identify the formation and development as well as socio economic and cultural structure of a typical craft village. 71
File đính kèm:
- nhung_dot_chan_hung_nghe_che_tac_da_an_hoach_thanh_hoa.pdf