Nghiên cứu lỗi trong văn bản biên dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt của sinh viên ngành Tiếng Trung - Trường Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên
Nghiên cứu lỗi trong văn bản biên dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt
nhằm xác định được lỗi sinh viên hay mắc trong quá trình thực hiện hoạt
động biên dịch, từ đó giúp giảng viên có định hướng để triển khai giảng
dạy cũng như giúp sinh viên tránh mắc lỗi tương tự.Hiện tại, mặc dù cũng
đã có những công bố liên quan đến lí thuyết và thực hành dịch thuật, tuy
nhiên chưa có công bố nghiên cứu về vấn đề này. Thông qua phương
pháp khảo sát thu thập dữ liệu qua các bản dịch của sinh viên và tiến hành
phân tích định tính cho thấy sinh viên chủ yếu mắc lỗi dịch sai lệch thông
tin, lỗi diễn đạt, lỗi sai văn phong.Nguyên nhân sản sinh lỗi xuất phát từ
hạn chế năng lực ngoại ngữ do nắm không chắc ngữ pháp và từ vựng
tiếng Trung, ngoài ra còn do ảnh hưởng của việc lạm dụng phương pháp
dịch từng từ, dịch trực tiếp để dịch văn bản từ tiếng Trung sang tiếng Việt
và chuyển di tiêu cực từ âm Hán Việt. Để khắc phục các lỗi này cũng như
cải thiện chất lượng biên dịchtừ tiếng Trung sang tiếng Việt, sinh viên cần
nâng cao năng lực ngôn ngữ đích, năng lực biểu đạt văn phong tiếng mẹ
đẻ, đồng thời cần nắm được các kỹ thuật dịch cơ bản và kiến thức,
thông tin về chủ đề biên dịch có liên quan. Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp
sinh viên cải thiện chất lượng biên dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu lỗi trong văn bản biên dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt của sinh viên ngành Tiếng Trung - Trường Ngoại ngữ - Đại học Thái Nguyên
y tiêu dùng. Vì vậy cần dịch là “những thay đổi trong quy định về khí thải và các chính sách khuyến khích người tiêu dùng”. Theo thống kê còn có những lỗi dịch sai thông tin tương tự như “sự thay đổi về tiêu dùng”; “do ảnh hưởng thay đổi về chi phí sinh hoạt”. Văn bản gốc 3: 不少国家采取便利签证、定制个性化产品等诸多措施,吸引更多中国游客。 Văn bản dịch tham khảo: Nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp như tạo thuận lợi trong làm thị thực và xây dựng các sản phẩm có bản sắc vùng miền riêng để thu hút nhiều khách du lịch Trung Quốc. Lỗi dịch 1: Không ít quốc gia đã áp dụng nhiều biện pháp như: ký giấy tạo điều kiện thuận lợi và sản xuất nhiều sản phẩm Lỗi dịch 2: Không ít quốc gia đã áp dụng lợi dụng kí kết, khẳng định tinh hoa sản phẩm. Ở ví dụ này, sinh viên vẫn không nắm được cách dịch định ngữ-trung tâm ngữ, “便利签证” được hiểu là “thị thực tiện lợi”, nghĩa là “tạo thuận lợi trong làm thị thực” dẫn đến dịch sai. Ở phân câu sau, “定制个性化产品” là một cụm động tân, trong đó tân ngữ là cụm định ngữ - trung tâm ngữ “个性 化产品”, “个性化” là định ngữ tu sức cho trung tâm ngữ là “产品”. Vì vậy phải dịch động từ “ 定制” trước, dịch tân ngữ “个性化产品” sau. Trong cụm tân ngữ phải dịch “sản phẩm” trước rồi mới dịch đến “có bản sắc vùng miền riêng”. Vì sinh viên không hiểu cách phân tách thành phần câu nên đã dịch sai lệch thông tin hoàn toàn. Một số lỗi dịch tương tự đối với ví dụ này như “đưa ra các biện pháp qui định khác nhau để hấp dẫn khách du lịch”; “áp dụng các hiệp định có lợi” Đối với loại lỗi từ vựng tiếng Trung, sinh viên thường không nắm được nghĩa của từ nhưng cũng không có khả năng phán đoán dựa theo văn cảnh của toàn câu, toàn đoạn dẫn đến dịch sai nghĩa của từ,cụm từ hoặc lấy giải pháp dịch âm sang Hán Việt làm cứu cánh cho bản dịch. Từ đó gây lỗi sử dụng sai từ Hán Việt trong chuyển di tiêu cực từ tiếng Trung sang tiếng Việt. Văn bản gốc 4: 2019年前三季度,我国出境游人数接近1.2亿人次,同比增长8,5%。 Văn bản dịch tham khảo: Trong ba quý đầu củanăm 2019, số lượng khách du lịch nước ngoài ở Trung Quốc là gần 120 triệu, tăng so với cùng kỳ là 8,5%. Lỗi dịch 1: 3 năm trước năm 2019, khách du lịch nước tôi xuất cảnh gần 1.2 tỷ lần Lỗi dịch 2: trước tháng 3 năm 2019 số người xuất ngoại được đề xuất gần 1.2 tỷ lần... Sinh viên không nắm được từ “季度”là “quý”, cũng không nắm được kiến thức nền về cách tính thống kê năm tài chính dẫn đến dịch sai. Cũng trong văn bản trên, từ “我国” là chỉ “Trung Quốc”, nhưng sinh viên lại chỉ quan tâm nghĩa từ vựng mà không chú ý đến bối cảnh văn hóa nên vẫn dịch là “nước tôi”. Và con số cũng xuất hiện lỗi dịch sai lệch. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 157 - 164 161 Email: jst@tnu.edu.vn Văn bản gốc 5: 今年以来,我国对外开放稳步推进。商务部数据显示„实际使用外资 6832.1亿元。 Lỗi dịch: “đối ngoại nước taTheo số liệu Bộ Công thương .6832.1 tỷ nhân dân tệ” hoặc dịch thành “thực tế vốn đầu tư sử dụng là hơn 6 nghìn tỷ đô la Mỹ”. Căn cứ văn bản gốc, thì cần xử lý lại “đối ngoại nước ta...” thành “đối ngoại Trung Quốc” thì mới đảm bảo truyền tải chính xác thông tin của văn bản gốc. Ngoài ra, việc dịch số tiền dùng đơn vị tỷ chưa chính xác, thực tế là 683,21 tỷ nhân dân tệ (NDT) không phải là hơn 6 nghìn tỷ, đặc biệt nghiêm trọng khi dịch đơn vị tiền tệ là đô la Mỹ là sai lệch thông tin rất lớn so với văn bản gốc. Ở đây nếu đơn vị tiền là đô la Mỹ thì sẽ được diễn đạt là 6832.1亿美元thay vì 6832.1亿元. 3.1.2. Lỗi diễn đạt tiếng Việt Lỗi diễn đạt tiếng Việt là 28 trong tổng 112 lỗi dịch, chiếm 25%. Sinh viên Việt Nam khi dịch văn bản từ tiếng Trung sang tiếng Việt có lợi thế nhất định về diễn đạt vì tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ. Tuy nhiên do sinh viên thường lạm dụng phương pháp dịch nguyên bản, dịch trực tiếp, quá chú ý vào dịch từ, cụm từ sát với tiếng Trung thay vì kết nối từ thành nghĩa tổng thể của câu, vì vậy dẫn đến lỗi dịch thừa, dịch thiếu từ hoặc sai sắc thái biểu cảm. Đối với nhóm lỗi dịch sai sắc thái biểu cảm của từ, sinh viên thường mắc lỗi dùng từ cận nghĩa nhưng sắc thái biểu cảm không đúng. Ví dụ: Văn bản gốc 6:手机依赖似乎成了人们耳熟能详的症候。 Văn bản dịch tham khảo: Phụ thuộc vào điện thoại dường như đã trở thành một chứng bệnh quen thuộc của mọi người. Lỗi dịch 1: Ỷ lại vào điện thoại đã trở thành bệnh chứng quen thuộc của mọi người. Lỗi dịch 2:Nghiện điện thoại đã trở thành chứng bệnh quen thuộc của chúng ta. Mặc dù sinh viên đều nắm được nghĩa của từ “依赖”, nhưng cách chọn từ “ỷ lại”, “nghiện” là những từ mang sắc thái biểu cảm rõ nét, cần chọn từ có tính chất trung tính như “phụ thuộc”. Những lỗi tương tự như “việc ỷ lại vào điện thoại trở thành thói quen của căn bệnh;” Văn bản gốc 7: “习近平代表中国政府和中国人民”. Lỗi dịch 1: “Đại diện cho chính phủ Trung Quốcvà nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch nước Tập Cận Bình”. Câu dịch trên mặc dù văn bản gốc có xuất hiện hai danh từ riêng là “Trung Quốc” và “Trung Hoa”, tuy nhiên để đảm bảo sự lưu loát và trôi chảy cho văn bản dịch nên áp dụng kỹ thuật “dịch cắt” (dịch cắt được hiểu là lược bỏ một yếu tố ngôn ngữ nào đó để diễn đạt phù hợp với ngôn ngữ văn bản dịch chứ không phải cắt đi thông tin quan trọng) để diễn đạt là “Đại diện cho chính phủ và nhân dân Trung Quốc, Chủ tịch Tập Cận Bình...” nhằm tránh đưa ra hai danh từ riêng Trung Quốc, Trung Hoa diễn đạt trong cùng một câu. Văn bản gốc 8: 习近平指出,希腊拥有悠久历史和灿烂文化...” Văn bản dịch tham khảo: “Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chỉ ra rằng, Hy Lạp là một nước có lịch sử phát triển lâu dài”. Lỗi dịch: “Tập Cận Bình chỉ ra rằng Hy Lạp có lịch sử lâu dài”. Việc sản sinh lỗi do văn bản dịch bám sát câu chữ của văn bản gốc dẫn đến dịch thẳng tên người sang tiếng Việt, không bổ sung thêm chức vụ, cách diễn đạt này không phù hợp với diễn đạt của tiếng Việt. Câu này nên dịch là: “Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình” thay vì chỉ dịch tên không “Tập Cận Bình”. Văn bản gốc 9: 而超过七成(70%)的大学生曾经尝试改变手机沉迷的现状。 Văn bản dịch tham khảo: hơn 70% sinh viên đại học đã cố gắng thay đổi tình trạng nghiện điện thoại di động. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 157 - 164 162 Email: jst@tnu.edu.vn Lỗi dịch: hơn 70% sinh viên đại học đã cố gắng thay đổi hiện trạng đắm chìm trong điện thoại di động. Từ “沉迷”, sinh viên dịch thành “đắm chìm”, từ này không phối hợp được với “điện thoại”, và cũng là từ mang sắc thái biểu cảm cao. Từ “现状” sinh viên dịch sang âm Hán Việt là “hiện trạng”, cũng khiến cho văn bản dịch trở nên khô cứng, gượng gạo, nên sửa lại là “tình trạng” sẽ phù hợp hơn với lối diễn đạt của văn tiếng Việt. 3.1.3. Lỗi không đảm bảo sự tương thích về thể loại văn bản giữa văn bản gốc và văn bản dịch Lỗi diễn đạt tiếng Việt là 28 trong tổng 112 lỗi dịch, chiếm 25%. Ví dụ: Văn bản gốc 10: 由于汽车制造商在去年底政策调整之前,推动了高排量汽车的销售, 原本应在1月发生的销量被提前至去年12月,带动了当月21%的增长。 Văn bản dịch tham khảo: Do trước khi có điều chỉnh chính sách vào cuối năm ngoái các nhà sản xuất ô tô đã thúc đẩy doanh số bán xe phân khối cao, doanh số dự tính tăng vào tháng 1 đã tăng trước vào tháng 12 năm ngoái, kéo theo 21% tăng trưởng trong tháng. Lỗi dịch 1: Lượng tiêu thụ lớn này đáng nhẽ tháng một mới phát sinh, nhưng lại xảy ra sớm hơn vào tháng 12 năm ngoái. Lỗi dịch 2: mà vốn dĩ lượng tiêu thụ phát sinh trong tháng 1 đã bị kìm lại đến tháng 12 năm trước. Từ “đáng nhẽ”; “mà vốn dĩ”; “bị kìm lại” là các từ dùng trong văn phong khẩu ngữ, không phù hợp với văn viết, văn bản mang văn phong trang trọng. Văn bản gốc 11: 澳门特区政府旅游局15日召开年度记者招待会时介绍, 2019年澳门入 境旅客超过3940万人次。 Văn bản dịch tham khảo: Văn phòng du lịch chính phủ Macao tại cuộc họp báo thường niên vào ngày 15 cho biết, khách du lịch nội địa của Macao năm 2019 vượt quá 39,4 triệu lượt người. Lỗi dịch 1: Trong buổi họp báo đón tiếp báo chí truyền thông hàng năm thì phòng du lịch Chính phủ Ma Cao cho biết..... Lỗi dịch 2: Cả năm thì lượt khách du lịch không qua đêm tại Ma Cao đạt hơn 20 triệu lượt người. Ở ví dụ (11), trong dịch văn phong chính trị trang trọng, sinh viên lại đưa thêm vào những hư từ dùng trong khẩu ngữ như “thì”. 3.2. Nguyên nhân phát sinh lỗi và giải pháp Thông qua thu thập và phân loại lỗi ở mục 3.1, chúng tôi tìm ra những nguyên nhân phát sinh lỗi chủ yếu và đưa ra những giải pháp cụ thể như sau: * Kiến thức về ngôn ngữ và kiến thức tổng hợp yếu: Do không nắm chắc ngữ pháp, không biết phân chia thành phần câu dẫn đến sự sắp xếp sai thứ tự các từ và cụm từ, dẫn đến sai lệch thông tin. Do vốn từ vựng ít, không nhận dạng được từ dẫn đến dịch ẩu, dịch sai. Do kiến thức nền về văn hóa xã hội yếu dẫn đến việc không nhận ra những thông tin phi thực tế trong văn bản dịch. Giải pháp cho vấn đề này là sinh viên cần nắm chắc và trau dồi năng lực ngôn ngữ tiếng Trung từ giai đoạn sơ cấp, cần nắm chắc cách phân chia thành phần câu trong học Ngữ pháp, lý thuyết tiếng Trung. Ngoài ra, trong quá trình học tập sinh viên không chỉ hình thành năng lực sử dụng tiếng Trung mà còn phải hình thành và tích lũy cho mình những kiến thức nền về xã hội, văn hóa để giúp khả năng phán đoán trong quá trình dịch được tốt hơn. Ví dụ, nếu sinh viên nắm được khái niệm “quý” thường được nhắc đến trong những thông tin về kinh tế tài chính thì khi dịch đoạn mang cụm từ “2019年前三季度” có thể sẽ phán đoán và dịch được đúng mốc thời gian này là “3 quý đầu của năm 2019” thay vì phán đoán là “tháng 3 đầu năm” hay là “3 năm trước”. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 157 - 164 163 Email: jst@tnu.edu.vn * Thiếu sự linh hoạt trong việc vận dụng các kỹ thuật dịch Do lạm dụng cách dịch thẳng, dịch âm, không nắm được phương pháp và kỹ thuật biên dịch nên lấy nghĩa của mỗi từ đơn và ghép lại thành nghĩa của câu, mà không chú ý liên kết nghĩa của các từ với nhau và tiến hành phán đoán dựa theo bối cảnh trong văn bản. Với vấn đề này, sinh viên cần tìm hiểu thêm về các phương pháp dịch để lựa chọn phương pháp dịch phù hợp tùy theo tình huống hoặc dạng văn bản. Trong quá trình dịch có thể áp dụng các kỹ thuật dịch như dịch thêm, dịch bớt, dịch ghép hoặc dịch tách câu để đảm bảo cách hành văn của văn bản phù hợp với cách diễn đạt của ngôn ngữ dịch sang. Ví dụ khi dịch tên của lãnh đạo từ tiếng Trung sang tiếng Việt cần dịch thêm tên chức danh hoặc thêm từ “đồng chí” thay vì cách nói tên trực tiếp như trong tiếng Trung. “习近平” cần dịch thêm tên chức danh là “Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình”; “张华” cần dịch là “đồng chí Trương Hoa” Những kỹ xảo trong dịch như dịch thêm hoặc dịch bớt là yếu tố quan trọng giúp cho bản dịch đạt được tiêu chí “dịch lưu loát, phù hợp với văn phong biểu đạt của ngôn ngữ dịch”, giúp cho người đọc bản dịch cảm thấy dễ hiểu và nắm được chính xác thông tin. * Diễn đạt tiếng Việt yếu Do quá chú trọng vào nghĩa của từng từ trong tiếng Trung và cố gắng để dịch thật sát mà không chú ý tới tiêu chí 2-3 của bản dịch là lưu loát, phù hợp với văn phong biểu đạt của ngôn ngữ đích. Ngoài ra sinh viên thường đem lối văn khẩu ngữ vào dịch văn bản từ Trung sang Việt, dẫn đến văn bản dịch tuy có dịch sát về nội dung nhưng thiếu tính trang trọng, chưa phù hợp văn phong văn bản viết. Giải pháp cho vấn đề này là sinh viên không được bỏ qua khâu kiểm tra rà soát lại bản dịch. Việc kiểm tra và rà soát này khiến cho sinh viên kịp thời phát hiện ra những lỗi dịch thiếu thông tin, lỗi diễn đạt không đúng văn phong biểu đạt và tiến hành hoàn thiện chỉnh sửa lại văn bản dịch.Ví dụ, đối với những câu do ảnh hưởng văn nói thường ngày có chứa những hư từ như “thì, mà nói....”, khi kiểm tra lại sẽ được loại bỏ khỏi văn bản, những từ ngữ mang sắc thái biểu cảm không phù hợp với văn phong trang trọng như “đắm chìm trong điện thoại” sẽ được sửa lại là tình trạng “nghiền điện thoại”. * Lạm dụng âm Hán Việt Sử dụng âm Hán Việt cho những từ chưa biết hoặc mơ hồ trong văn bản gốc là hiện tượng lỗi dịch khá phổ biến. Do sinh viên chưa nắm được sự khác biệt về sắc thái biểu cảm, về nghĩa từ Hán Việt khi chuyển di sang tiếng Việt. Thêm vào đó, sinh viên còn lạm dụng âm Hán Việt làm cứu cánh cho những từ không hiểu nghĩa. Đối với vấn đề này, sinh viên cần chú tâm đến âm Hán Việt ngay từ giai đoạn sơ cấp, tìm hiểu sự khác biệt về nghĩa của âm Hán Việt khi chuyển di từ tiếng Trung sang tiếng Việt.Ngoài ra đối với những từ ngữ tiếng Trung chưa biết nghĩa, sinh viên không nên dịch sang âm Hán Việt hoặc đoán mò mà cần dựa vào ngữ cảnh của cả câu tiến hành phán đoán và dựa vào mỗi ngữ tố trong từ đó để phán đoán. Ví dụ trong cụm từ “定制个性化产品” thì “定制” âm Hán Việt là “định chế”, tuy nhiên từ này trong tiếng Việt rất ít khi dùng, vì vậy cần hiểu nghĩa của từ này theo cách diễn đạt tương đương trong tiếng Việt là “định ra, xây dựng....”. Tương tự với “个性化 ” thì không thể dịch trực tiếp ra âm Hán Việt là “cá nhân hóa”, như vậy sẽ gây khó hiểu cho người đọc. Vì vậy sinh viên cần dựa vào ngữ cảnh của cả đoạn là đang nói về xây dựng sản phẩm du lịch thu hút khách du lịch, để suy luận ở đây“个性化” là sản phẩm mang tính đặc trưng của vùng và diễn đạt sang tiếng Việt cho phù hợp với thói quen biểu đạt trong tiếng Việt. 4. Kết luận Việc rèn luyện kỹ năng dịch cho sinh viên ngành ngoại ngữ nói chung và sinh viên ngành tiếng Trung Quốc nói riêng là hết sức cần thiết. Đối với hoạt động biên dịch, đặc biệt là biên dịch TNU Journal of Science and Technology 226(08): 157 - 164 164 Email: jst@tnu.edu.vn từ tiếng Trung sang tiếng Việt, sinh viên mặc dù có lợi thế về diễn đạt tiếng Việt, tuy vậy dựa vào tiêu chí đánh giá chất lượng bản dịch, chúng tôi nhận thấy sinh viên chủ yếu mắc lỗi dịch sai thông tin, lỗi diễn đạt, lỗi văn phong. Để hạn chế những lỗi này sinh viên cần có ý thức nâng cao năng lực ngôn ngữ đích, năng lực diễn đạt văn phong viết của tiếng mẹ đẻ, trang bị cho bản thân thông tin cơ bản về chủ đề biên dịch có liên quan cũng như các kiến thức thông thường để cải thiện kỹ năng biên dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt của bản thân. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] WuRui, Exploration of translation theory. Southeast University Press, p. 1, 2010. [2] XiongDeMi, “A Review of Nida's Translation Theory,” Journal of ChongQing University, vol. 7, no. 4, pp. 85-89, 2001. [3] X. Bin, “Conceptual Confusion in Translation Studies: A Case Study of Translation Strategies, Translation Methods and Translation Skills,” ZhongGuo Fanyi, no. 3, pp. 82-88, 2014. [4] YanPhu, Theory of natural selection. The Commercial Press, p. 13, 2017. [5] LiuYanYan,“Translation of six stories of Floating Life from the Perspective of Tettler's Three Principles,” Journal of Luohe Vocational Technology College, vol. 13, no. 4, p. 133, 2014. [6] Y. Xiu, W. Honghua, L. Heping, and L. Duanyang, “Translation assessment: an analysis of translation errors from a corpus of Hong Kong university students,”Translation Studies and Teaching, no. 2, pp. 96 - 112, 2019. [7] L. Yingxuan, “An Analysis of Scientific Translation Errors Based on Classroom Observation,” A comparative study of cultural innovation, no. 5, pp. 122-128, 2021.
File đính kèm:
- nghien_cuu_loi_trong_van_ban_bien_dich_tu_tieng_trung_sang_t.pdf